Thứ Hai, 22 tháng 6, 2015

Tiễn Bố - Nguyễn Đình Đăng



Bố yêu quý,

Thật khó chấp nhận ý nghĩ rằng đây lại là lời đưa tiễn bố vào cõi vĩnh hằng, hay về với cát bụi, như sinh thời bố thường nói.

Chúng con không biết có bao nhiêu trí thức Việt Nam đã trải qua một hành trình đầy chịu đựng trong cõi đời như bố. Song chúng con biết chắc chắn rằng bố đã nhẹ nhàng thư thái ra đi sau khi đã hưởng niềm hạnh phúc lớn nhất trên thế gian này: Tình Yêu. Vâng, sau bao nhiêu ảo vọng, khi niềm tin vào lý tưởng đã bị thực tế phản bội, khi sự thật về cuộc đời phù du này chỉ được bố tóm tắt bằng câu:
“Vanitas vanitatum omnia vanitas” (Hư danh của hư danh, tất cả đều là hư danh), thì chỉ có Tình Yêu là lý do duy nhất khiến cho cuộc đời này trở nên đáng sống.

Một trong các vĩ nhân của nền văn minh Pháp mà bố thường nhắc đến, Blaise Pascal tiên sinh từng nói: “Sự rõ ràng trong tư tưởng cũng có nghĩa là sự rõ ràng trong niềm say mê. Đó là lý do vì sao những bộ óc vĩ đại và minh mẫn từng yêu rất mãnh liệt và hiểu rõ mình yêu cái gì.” Một tình yêu nồng nàn đã tỏa sáng lấp lánh từ những vần thơ bố viết tặng mẹ ngày 16 tháng 7 năm 1967 khi cuộc chiến tranh phá hoại do Hoa Kỳ tiến hành trên miền Bắc Việt Nam đang ở lúc gay go ác liệt:

Đêm nay anh sẽ nhìn em ngủ,
Hôn mái tóc thơm, miệng nở hoa.
Trăng sáng ghé nhìn qua cửa sổ,
Thấy tình đằm thắm vợ chồng ta.
Dự định của anh đã chẳng thành,

Lá thư vừa đến, mộng tan tành:
Em không về được vì công tác,
Mênh mông buồn ngập cõi lòng anh!
Buồn đến rồi ra lại ước mong,

Không ai yêu mến vợ bằng chồng.
Tuần này anh đợi em về nữa.
Em có yêu anh, có nhớ không?

Hạnh phúc lớn nhất của gia đình ta là bố đã gặp mẹ. Hạnh phúc tiếp theo là cả bố và mẹ đều từng du học ở Pháp. Cũng như nhiều sinh viên Việt Nam thế hệ của những năm 40, bố say mê văn chương, khoa học phương Tây thông qua nước Pháp, nhưng lại căm ghét chế độ thực dân ở Đông Dương. Đó không phải là một nghịch lý nếu hiểu rằng không ít trí thức Việt Nam luôn có chung một suy tư rằng chỉ có dân trí cao và kiến thức văn minh của nhân loại mới làm cho quốc gia nhỏ bé này ngẩng mặt được với năm châu, chỉ có những giá trị toàn cầu mới giúp dân tộc Việt Nam thoát khỏi cái mặc cảm nhược tiểu thâm căn cố đế ngự trị trong tâm lý của những cư dân trên dải đất hình chữ S.

Cũng bởi lý do đó mà trí thức Việt Nam, bên cạnh Nguyễn Du, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Bà Huyện Thanh Quan của mình, trong khi liên tục phải đấu tranh lật ách đô hộ và sự đồng hóa của bá quyền phương bắc, vẫn trích dẫn Đỗ Phủ, vịnh Đường Thi, đọc Cổ Học Tinh Hoa, sử ký Tư Mã Thiên, xem tranh Từ Bi Hồng, Tề Bạch Thạch, trong khi chống lại thực dân Pháp vẫn say sưa từ Corneille, Racine, Molièrre, Lamartine, Hugo, tới Musset, Baudelaire, Verlaine, André Gide, và trong chiến tranh Việt Nam, các trí thức Hà Nội vẫn trân trọng những tư tưởng tự do và nhân quyền của Patrick Henry, Franklin Roosevelt. Chính vì vậy mà, mặc dầu những khó khăn chung của đất nước trong chiến tranh, chúng con từ nhỏ đã nhận được một nền giáo dục toàn diện từ chính bố mẹ mình. Nền giáo dục tự do dân chủ trong tình yêu không vụ lợi này ưu việt hơn hẳn những gì chúng con đã “được dạy” trong nhà trường.

Nhà văn Nga Anton Tchekhov từng nói đại ý rằng giá trị của đời người được đo không phải bằng số năm tháng, mà bằng những khoảnh khắc đáng ghi nhớ trong cuộc đời đó. Năm 1972 Mỹ lại ném bom miền Bắc. Mọi người ở thành thị một lần nữa lại phải đi sơ tán. Lần này gia đình ta phải chia làm bốn. Bố sơ tán cùng trường bố dạy học. Minh đi bộ đội theo lệnh tổng động viên. Mai Chi theo mẹ. Đăng sơ tán theo trường nhạc. Một ngày tháng mười, mẹ, Mai Chi và Đăng đạp xe đi thăm bố.

Con đường từ chỗ Đăng sơ tán đến chỗ bố dài khoảng ba chục cây số, và đi qua Sơn Đồng – một thị trấn nhỏ nằm trên trục đường nhựa đi Hà Nội nhưng khá sầm uất với nhiều hàng phở, quán cơm hai bên đường. Ba mẹ con đến Sơn Đồng vào gần trưa và đều đói. Vì thế mẹ bảo dừng lại ăn trưa tại một quán phở cạnh đường. Tuy nhiên, trước khi gọi phở mẹ bỗng dưng đổi ý định, nói: “Ngồi ăn ở đây cũng mất ít nhất nửa tiếng. Bố chờ lâu sẽ sốt ruột và lo. Hay là các con và mẹ ráng chịu đói, đạp xe đi tiếp. Gặp bố rồi ăn sẽ càng vui.” Thế là ba mẹ con lại lên xe đạp và tiếp tục đi.

Sau khi ba mẹ con đi khỏi Sơn Đồng được chừng nửa cây số thì máy bay Mỹ ập tới oanh tạc thị trấn. Trận bom đó đã san phẳng Sơn Đồng. Nhiều người chết. Người ta thấy cả những xác trâu trúng bom bị hất tung lên nằm vắt trên cành cây to. Dãy hàng quán hai bên đường qua thị trấn bị bom phá sập tan tành, kể cả cái quán phở tại đó mẹ và chúng con suýt nữa đã ngồi lại ăn. Tình yêu đối với bố đã cứu ba mẹ con thoát chết. Tình yêu đó cũng đã giúp mẹ vượt qua mọi khó khăn về tinh thần, vật chất, tuổi tác, để chăm sóc bố trong suốt 23 năm kể từ sau khi bố bị tai biến mạch máu não vào năm 1986.

Niềm say mê của bố không chỉ được đóng khung trong văn chương, tiếng Anh, tiếng Pháp, toán học, âm nhạc, mà còn lan sang cả các lý tưởng đương thời. Và đây là điểm bắt đầu mọi đau khổ tinh thần của bố, cũng là của các con cháu – những người thừa hưởng từ bố và ông của chúng một tình yêu chân lý tuyệt đối, một niềm tin vào sự hoàn hảo, không chịu được những gì hời hợt, giả tạo, nửa vời, công phẫn trước những ngang trái, băng hoại đạo đức trong xã hội. Tiếc thay, thế giới này ngay từ đầu đã không hoàn hảo. Ở một đất nước đầy đau khổ như Việt Nam nó lại càng bất hoàn hảo tới mức bất … hảo! Song chúng con chắc bố cũng không muốn nhắc lại những điều ti tiện nhỏ nhen mà cuộc đời đã bắt bố phải gánh chịu để nuôi dạy chúng con nên người.

Trong ký ức của chúng con không chỉ có những hình ảnh bố thời thanh xuân chụp với ông bà và các cô chú dạo chơi trên bãi biển Sầm Sơn, bố mẹ sóng đôi đi dọc boulevard Saint Michel, đứng trên cầu trong công viên Montsouris ở Paris, những buổi tối cả nhà ta quay quần quanh mâm cơm, rồi sau đó trẻ con cãi lộn, đùn nhau rửa bát. Chúng con còn thấy hiện lên bóng dáng bố, đầu đội mũ sắt, chân đi ủng, gò lưng đạp xe trên con đường thôn quê còn chưa khô hết bùn, thồ gạo, dầu, mắm, muối, sách vở và cả đĩa hát về nơi sơ tán cho chúng con, nghe văng vẳng đâu đây giọng ca thiên thần của Tino Rossi

J’attendrai le jour et la nuit
J’attendrai toujours ton retour
J’attendrai car l’oiseau qui s’enfuit
vient chercher l’oubli dans son nid
Le temps passait court en battant tristement
dans mon coeur si lourd
Et pourtant j’attendrai ton retour

phát ra từ cái kèn hát chạy bằng dây cót bố đem từ Hà Nội về nơi sơ tán, thấy lấp loáng mảnh vải nhựa màu lục bố khoác làm áo mưa khi đi ra chợ quê mua da trâu về để ninh cho chúng con ăn thay thịt, thấy vầng sáng vàng vàng của ánh đèn bão chiếu lên chân dung Nikolai Lobachevsky mà bố đã bảo Đăng vẽ để minh hoạ trong buổi nói chuyện ngoại khoá của bố về hình học phi Euclid cho các học sinh cấp 3 tại nơi sơ tán, nghe thấy vang lên tiếng bố gọi: “Mai Chi…i !” rồi tiếng bánh xe đạp của bố đập vào rễ cây bàng sau cổng nhà mình mỗi khi bố đi dạy học về. Và cứ mỗi lần nghĩ như vậy, bên cạnh nỗi buồn vô hạn là bố đã đi xa, chúng con lại thấy lâng lâng một niềm tự hào vì được làm con của bố.

Bố ơi,

Bố thường nói: “Chết là hết.”, song chúng con không tin như vậy. Cho dù không chắc có một chốn Thiên Đàng nơi những người hiền sau khi chết sẽ bay lên ngồi bên cạnh Chúa Trời, hay một Địa Ngục nơi những kẻ tham lam, tàn ác, tội lỗi, sẽ bị lũ quỷ sứ hành hạ, chúng con tin rằng, con, cháu, chắt, … chính là sự tiếp nối cuộc đời của con người. Chính vì vậy hình ảnh, tinh thần của bố sẽ luôn sống cùng con cháu – những người mang DNA của bố.

Sự chết chóc về thể xác chỉ như những chiếc lá rụng từ cây đời mãi mãi xanh tươi. Đúng như một đại văn hào Pháp mà bố ưa thích, cụ Anatole France, từng nói, chỉ có những người tầm thường, những người không biết làm gì với cuộc đời này mới muốn sống mãi không bao giờ chết. Mong bố hãy yên nghỉ. Tinh thần, tư tưởng mà bố đã truyền cho các con cháu và các học trò của mình sẽ còn mãi với thời gian.

Tokyo, 2 tháng 6 năm 2009 *)

© 2009 Nguyễn Đình Đăng.
Gia Đình Phan lê chuyển
___________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

MỪNG SINH NHẬT MUỘN - Đỗ Chiêu Đức Và Các Thi Hữu

                       Ân c ần t ạ l ỗi v ới thi nh ân,                    Sinh nh ật h ăm l ăm nh ạc  đ ã ng ân.                    Th ân c...