Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

Từ Trang GIÓ MIỀN TÂY

 


Ta chẳng dám mong đời này hết khổ

Chỉ cầu cho đủ sức khỏe vượt qua
Nào dám mong thôi hết những xót xa
Chỉ thầm ước sau mưa là nắng ráo.
Ta thấm mệt hơn nửa đời nương náu
Bởi lo toan với cơm áo gạo tiền
Có những khi lòng trĩu nặng niềm riêng
Cũng chẳng dám đem muộn phiền san sẻ.
Lòng thằm nhủ phải tự thân mạnh mẽ
Tập nhìn đời nhẹ tựa áng phù vân
Bởi giờ đây điều duy nhất ta cần
Là được thấy người thân luôn bên cạnh.
Sau giông bão ắt trời quang mây tạnh
Qua đêm dài ló rạng ánh bình minh
Tĩnh lặng tâm cảm nhận sự yên bình
Thấy may mắn vì mình còn hơi thở.
Đón ngày mới nắng hồng lên rực rỡ
Hãy mỉm cười như hoa nở trên môi
Bao ngậm ngùi thả cho gió cuốn trôi
Cứ vui sống vì cuộc đời vẫn đẹp.

Tóc Mây Em Thả Về Đâu của Gia Nguyễn

Bài thơ Tóc Mây Em Thả Về Đâu của Gia Nguyễn

  “Tóc mây
   Em thả về đâu
   Hình như đang chảy
   giữa câu thơ buồn

   Tình kia 
    như khói như sương 
    Có là có thật 
    mà dường như không

    Dẫu cho 
    trăm suối nghìn sông
    Cũng không ngăn nỗi
    lòng mong nhớ người

    Tóc mây 
    em thả về đâu
    Tôi nghe tóc chảy
    giữa câu thơ buồn.
    

 

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

Mời Họa : GIỌT SẦU ĐÊM MƯA - Thơ Sông Thu

Mời Nghe Nhạc :


Mời Họa :

Giọt Sầu Đêm Mưa

Lệ nhỏ cùng mưa những giọt sầu
Âm thầm day dứt suốt canh thâu
Đèn soi bóng chiếc mờ phên vách
Gió lạnh thân đơn bạc mái đầu
Ảnh vẫn trên bàn , người đã khuất
Lời in trong trí , giọng còn đâu
Hoen nhòa nhật ký từng đêm trắng
Buốt nhói tim côi nỗi muộn sầu .
Sông Thu

 

Bài họa

1./ Giọt Sầu Đêm Mưa

Giọt mưa hay lệ đẫm cơn sầu
Khơi bấc cạn dầu đã mấy thâu
Khắc cốt hằn sâu lời hẹn cuối 
Ghi tâm in đậm dấu tình đầu
Hương xưa vạn thuở còn quanh quẩn
Người cũ muôn trùng mãi tận đâu 
Gối chiếc trở trăn hoài điệu ái 
Đàn khuya thổn thức mãi cung sầu .
LHN

2./ CUNG SẦU LỖI NHỊP

Lòng ta nặng trĩu những cung sầu
Tâm sự khó bày , bởi tại đâu ?
Xót phận bẽ bàng vay nợ cuối
Thương thân hiu quạnh lỡ duyên đầu
Bâng khuâng niềm nhớ từng canh vắng
Man mác nỗi buồn chuỗi lệ thâu
Ngao ngán kiếp người sao lận đận
Cung đàn lỗi nhịp lạc âm sầu !
songquang
20241104



3./ TIẾNG LÒNG.


Văng vẳng,giữa khuya giọng não sầu
Thương chồng,chinh phụ khóc đêm thâu
Đông sang giá lạnh người quan ải
Gió buốt tái tê kẻ tuyến đầu
Khắc khoải,đêm dài thao thức mãi
Bâng khuâng,gối lẻ mộng mơ đâu!
Phòng đơn quạnh quẻ bao ngày tháng
Tim chết dần theo nỗi khổ sầu!
LAN.
(05/11/2024).


4./ MƯA ĐÊM

Dài đêm rả rích tiếng mưa sầu
Nhạc điệu u hoài vọng thẳm thâu
Gió lạnh rêu rao niềm trắng tóc
Mây khuya vất vưởng nỗi xanh đầu
Lá rơi mùa biệt không về nữa
Người bỏ ta đi có hẹn đâu
Sao mãi trăm năm lòng cứ đợi
Khoắt khuya dạ vũ nhốt trong sầu…
Lý Đức Quỳnh
5/11/2024

HỌA 5 : SẦU NGHIÊNG

Mưa rơi tí tách gợi cơn sầu,
Tê tái nghiêng lòng buốt giấc thâu.
Dào dạt gió lê la tạt vách,
Bâng khuâng khơi nhói buốt tê đầu.
Đau lòng trắc trở thuyền neo bến,
Xót dạ bồi hồi đó đến đâu?
Trót lỡ kết se duyên ước nguyện,
Đành cam chuốt thảm lệ hoen sầu!
*
Người vắng đây mòn mỏi giấc thâu!
HỒ NGUYỄN (04-11-2024)


 6./ Giọt Sầu Đêm Mưa

Ngoài hiên tí tách giọt Thu sầu
Tựa tiếng thời gian nhịp cả thâu
Tử biệt anh vùi tươi thắm mộng
Sinh ly em phải bạc phơ đầu
Dư hương phảng phất còn lưu mãi
Kỷ niệm dâng trào chẳng mất đâu
Gió lạnh cô phòng thêm buốt giá
Tàn canh nguyệt lặn chửa vơi sầu
ThanhSong ntp
CA.04/11/2024


7./ Mưa Đêm ( họa 4 vần )


Mưa đà nặng hạt suốt đêm thâu
Để thấm hồn ai những giọt sầu
Hỡi giấc mơ xưa chìm nhạt mãi
Ơi bờ mộng cũ chảy nhòa đâu
Chân trời kỷ niệm mờ sương khói
Góc bể yêu thương bạc mái đầu
Gió cuộn ngoài kia thêm lạnh buốt
Nghe lòng thổn thức nỗi niềm sâu
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 11/5/2024



Mời Quí Thi Hửu 

8./ Sầu

Nghe tiếng mưa đêm sầu lại sầu
Chạnh lòng cô lữ mỗi đêm thâu
Hướng thương từ trước xanh bờ mắt
Vọng tưởng về sau trắng tóc đầu
Tách bến thuyền đời tìm bến đậu
Xa bờ tay lái biết bờ đâu
Ngẫm suy nước đổi hay người đổi
Nâng chén men cay để nuốt sầu.
2024-11-05
Võ Ngô 

9./ MƯA SẦU

Rả rích mưa tuôn đếm nỗi sầu
Khiến lòng thổn thức suốt đêm thâu
Lạnh lùng bóng chụp đè tâm trí
Giá dại âm reo buốt óc đầu
Lần dở ngày xưa không bởi lẽ
Day ôn chuyện cũ chẳng vì đâu
Canh tàn mệt mỏi mưa khôn dứt…
Gà gáy mà chưa vợi tiếng sầu…
CAO BỒI GIÀ
5-11-2024

10./ ĐÊM NGHE TIẾNG MƯA RƠI 


Tí tách mưa rơi não nuột sầu

Tàn canh thao thức suốt đêm thâu

Người đi xứ  ngoại hờn duyên số 

Kẻ ở quê hương tủi phận đầu

Bởi tại  tình phai quên trở lại 

Hay vì  nợ hết biết về đâu

Trăm năm lạc nẻo buồn da diết 

Ai nhớ thương ai khổ lụy sầu 

Hưng Quốc 

Texas 11-5-2024


11,. GIỌT SẦU ÂN HẬN


Sao còn ngâm vịnh mải than sầu?
Đất nước chủ quyền chửa tóm thâu!
Tổ quốc không còn, nhà mất nóc,
Giang sơn đã chết, xác không đầu.
Tương lai hạch hỏi sao mà vậy,
Hậu thế sưu tra bởi tại đâu,
Nối giáo quân thù giày mả tổ,
Có còn ngâm vịnh mải than sầu?
Đỗ Quang Vinh
05-11-2024

12./ LỠ MỐI DUYÊN SẦU…!


Châu rơi thổn thức mối duyên sầu…!
Chạnh khóc âm thầm bấc lụn thâu
Lẻ bóng chập chờn phên nứa vách
Đơn thân lạnh lẽo tóc sương đầu
Chân dung quá cố người xưa khuất…
Trí não còn in giọng cũ đâu…?
Nhựt ký hoen nhòa đêm thức trắng
Tim côi buốt nhói lỡ duyên sầu
MAI XUÂN THANH
Silicone Valley 11/05/2024

13./ KHẮC KHOẢI…

Phòng loan giá lạnh bủa tim sầu!
Giấc điệp mơ màng chẳng trọn thâu!
Mãi gợi đêm nầy hình bóng cũ
Nào quên thủa ấy nụ hôn đầu
Sao đành giã bậu về phương đấy!
Lại nỡ neo thuyền cặp bến đâu?
Khắc khoải tàn canh thầm tưởng tượng
Vầng trăng thấu hiểu dạ hoen sầu!
Như Thu
11/05/2024

14./ ANH Ở ĐÂU?

Ngoài hiên tí tách hạt mưa thâu
Buốt giá thân đơn… sầu ngập sầu
Chạnh nhớ đêm nao còn đối bóng
Ngùi thương ngày đó tựa đôi đầu
Bài thơ liên khúc em luôn giữ
Chiếc ảnh bên nhau… anh ở đâu ?
Vẫn biết vô thường trong chớp mắt
Mà sao không thể dứt cơn sầu
Kiều Mộng Hà
Nov.04.2024


15./ CHẠNH ĐÊM THÂU

 Văng vẳng chiều buông dạ khúc sầu
Lầu cao lặng lẽ chạnh đêm thâu!
Não nề mưa gió hờn đơn bóng
Vun vút thời gian xót bạc đầu.
Nửa mảnh trăng gầy vui chốn ấy
Một vì sao sáng rụng nơi đâu ?
Hình xưa ánh mắt còn đăm đắm
Như thể ủi an một kẻ sầu !
     Mailoc


CON ĐƯỜNG "HOÀNG TUYỀN LỘ" BỊ CẤM 400 NĂM CỦA TRUNG QUỐC: CON ĐƯỜNG THÔI MIÊN KHÔNG AI DÁM ĐẶT CHÂN TỚI

Tưởng chừng tiến bộ khoa học có thể làm mờ dần đi những ám ảnh của con người về thế giới siêu nhiên, nhưng trong thế giới rộng lớn này, vẫn không ít sự vật khiến giới khoa học lắc đầu khó hiểu.


Tại Trung Quốc, có một con đường bị phong tỏa hơn 400 năm nay và trở thành khu vực cấm cấp quốc gia, đó là "Hoàng Tuyền lộ" (黃泉路).

Nói là con đường song đây thực chất là tên gọi một khu rừng sâu nằm trong núi Ngõa Ốc, tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc). Nơi đây được biết đến như một khu vực thắng cảnh và là địa điểm thám hiểm nổi tiếng nhưng không ai dám đặt chân tới nơi này vì những sự việc đặc biệt trong quá khứ.


Nó được gọi là "mê hồn đãng" – hố mê hồn, cũng có tên khác là con đường không lối về, bởi vì nhiều người đã bị lạc khi đi vào đây. Tại đây có rất nhiều sương mù, la bàn và các vật dụng chỉ phương hướng không thể hoạt động. Không thể tìm thấy đường, không thể đi ra, cộng thêm việc ở trong sương mù quá lâu sẽ làm con người bất tỉnh nhân sự.

Năm 1999, một kỹ sư sinh học và một chuyên gia về gấu trúc bất ngờ đi vào "Hoàng Tuyền lộ" (黃泉路) và không bao giờ trở về nữa. Trong những năm 1970, cũng rất nhiều đoàn thám hiểm đến đây và cũng không thấy trở về. Đến nay, số người bị mất tích không hề nhỏ!


Đến thời điểm hiện nay, chỉ có duy nhất một đội thám hiểm có thể sống sót trở về từ "Hoàng Tuyền lộ".

Theo lời kể của những người này, xung quanh khu rừng chỉ toàn là sương mù, chỗ nào cũng giống nhau, la bàn không hoạt động, đồng hồ điện tử thì quay nhanh hơn, mà lại không có phương hướng, lúc ngược lúc xuôi, hơn nữa trong rừng sâu nên cũng có nhiều "chướng khí" (khí độc trong rừng sâu).


Nếu ở thời gian dài chắc chắn cơ thể sẽ bị ảnh hưởng, nên họ nhanh chóng trở về. May mắn là nhóm thám hiểm này đã đánh dấu những lối đi rất cẩn thận, bởi vậy mà có thể tìm được đường ra ngoài.

Các nhà khoa học vẫn không thể lý giải nổi tại sao khi vào đến "mê hồn đãng", la bàn không thể hoạt động, cũng như tại sao kim đồng hồ điện tử lại quay nhanh hơn.


Liệu có phải do từ trường không tồn tại ở nơi đó? Nó không hoạt động theo nguyên tắc của Trái Đất? Khu vực này hiện nay vẫn bị cấm ra vào và được canh gác vô cùng cẩn thận.

Con người thường gán cho những sự việc là do ma quỷ làm nếu họ không thể lý giải nổi. Những sự việc kỳ quái như vậy là sự thách thức nhưng cũng là khát vọng tìm hiểu đối với bất kỳ nhà khoa học nào.

Karry Tran / Theo: Sohu
Link tham khảo:

https://www.bannedbook.org/bnews/zh-tw/funmedia/20240110/1985777.html 


Thứ Ba, 5 tháng 11, 2024

Trang Thơ NKĐ (T.10/24. 2 ) : ĐÓN ĐƯA , ĐƯỜNG XƯA , THÂN PHẬN , MẶC TÌNH

1./ ĐÓN ĐƯA

Bây giờ đường sá phẳng phiu
Người qua kẻ lại dập dìu hơn xưa
Một ngày mấy lượt đón đưa
Cháu đi trường học , ta mua chuyện đời
Phố đông , người lắm kiểu thôi
Kẻ thời ma mảnh, người thời thiện lương
Thấy mặt , lòng chẳng thể lường
Đời càng tiến bộ , nhiễu nhưong càng nhiều
Lắm người bày lắm thói điêu
Cho nên kèm cháu , quỷ yêu khắp cùng !
15g54 .23/10/2024.
Ngô Kế Đang.

2./ ĐƯỜNG XƯA
1/ Đường xưa : nào nhớ những ai !
Qua rào chiến lược, ra ngoài ruộng xa
Đi tìm dế đả thôi mà
Tuổi thơ nào biết đâu là chiến chính
2/Đường xưa : nghĩ lại thương mình
Mấy đồng bạc cắc chân tình với nhau
Tuổi học sinh , đẹp làm sao !
Trời mưa che bạt, đến mau quán nghèo
3/Đường xưa: tuổi mới chớm yêu
Đón đường đi học, sớm chiều đưa thư
Rằng thư rồi sẽ phải từ
Tình yêu cánh mỏng, bay như chuồn chuồn
4/ Đường xưa: những mấy vấn vương
Bạn bè nằm lại chiến trường, xót đau
Nghĩ mà tê tái làm sao !
Trời xui nên cảnh xáo xào thịt da
5/ Đường xưa : đầy những lầu hoa
Thế hệ sau đã vươn xa cùng người
Ta giả cố hủ lẳm rồi
Thì thôi dừng lại, xem đời vượt lên
6g06.27/10/2024


3./ THÂN PHẬN
Lương lãnh ít , đôi khi lại trễ
Thông báo thu tiền, cứ đến nhanh
Điện , nước quốc doanh, không kìm chế
Trách sao mọi thứ chẳng leo thang!
Tiêu, hành,tỏi, ớt trồng trong nước
Lấy cớ thuốc, phân nhập nước ngoài
Cái nhỏ , cái to nào ngăn được
Quản lý thị trường cũng bó tay !
Rốt cuộc người nghèo đành chịu khổ
Truyền hình chưa thấy, vội truyền thanh
Lương hưu tăng xíu như biến cố !
Già hãy bớt ăn , chịu khổ hành !
Nào họp , nào bàn ôi lắm cuộc
Cũng nhiều tiến sĩ , lắm chuyên gia
Tăng bằng nhau cả ! - Thôi không được !
Thôi thế thì thôi "ta lo ta" !
" Chìm xuồng tự lội " - Xưa nay vậy !
Nghèo khó , già rồi phải cố thôi
Công bằng không phải đều nhau đấy
Đương nhiệm vẫn hơn bởi có " tôi" !
9g19.03/11/2024
Ngô Kế Đang.



4./ MẶC TÌNH
Thôi thì giả điếc chẳng nghe
Giả đui chẳng thấy, lành dè bản thân
Giả không ngữi biết hôi tanh
Giả câm chẳng nói, mà đành sống chung
Giữa bầy người đã bất trung
Cố ngoi lên để tập tuồng cao sang
Bởi ta chữ nghĩa nghèo nàn
Nói không hề thấm, họ càng coi khinh
Cõi đời là cõi u minh !
Vô thường lắm đấy, mặc tình họ thôi
13g09. 05/11/2024
Ngô Kế Đang.


Ảnh  1 :: Từ Google
Ảnh 2 :1920,Du khách thăm hồ Ba Bể
Ảnh 3 : Về quê,ký họa của Fred Campana
Ảnh 4 : ĐTDĐ đầu tiên 1973

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

 Tạp Ghi và Phiếm Luận :  

            Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ
                           

        Ăn xổi ở thì, Giá áo túi cơm, Ngựa quen đường cũ, Can qua Mâu thuẫn

      Nhớ năm 1964 của Thế kỷ trước, khi dự thi môn Văn của bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, tôi đã phải trả lời câu hỏi giáo khoa: Giải thích nghĩa của thành ngữ "Dữ Thế Phù Trầm" và so sánh sự tương quan với thành ngữ "Ăn Xổi Ở Thì" của ta. Mặc dù lúc đó chỉ mới có 16 tuổi, nhưng nhờ biết được chút đỉnh chữ Nho nên tôi đã rất đắc ý và cảm thấy rất khoái chí khi trả lời câu hỏi nêu trên, và cứ đinh ninh cho rằng nhờ trả lời được câu hỏi đó mà mới đậu được bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp trong năm đó...

      DỮ 與 là Cùng, với; THẾ 世 là Cuộc đời; PHÙ 浮 là nổi; TRẦM 沉 là Chìm, nên DỮ THẾ PHÙ TRẦM 與 世 浮 沉 có nghĩa là "Chìm nổi với cuộc đời". Thành ngữ nầy có xuất xứ từ《Hữu Ban Điện Trực Phó Quân mộ chí minh 右 班 殿 直 傅 君 墓 志 铭》của Tư Mã Quang đời Tống 宋· 司 马 光 Trong đó có câu nói như sau:... Nhiên bất năng dữ thế phù trầm. Bình thị qúy yếu, nhược vô nhân, cố sở chí trở ngữ ... 然 不 能 與 世 浮 沉。平 视 贵 要,若 无 人,故 所 至 齟 齬。” có nghĩa: "... Thế nên không thể nổi chìm theo thế sự, xem thường những người quyền qúy như những kẻ không ra gì, để đến đổi phải đôi co cắn đắng". Nên...
     DỮ THẾ PHÙ TRẦM 與 世 浮 沉 là Nổi chìm theo thế sự, chìm nổi với cuộc đời, mặc cho thói đời đưa đẫy; và trong một chừng mực nào đó, nó có nghĩa như là thành ngữ "ĂN XỔI Ở THÌ" của ta. Theo Từ điển Việt Nam trên mạng "ĂN XỔI" là Ăn qua loa cho xong; "Ở THÌ" là Ở cho qua thời buổi, nên...
     ĂN XỔI Ở THÌ là "Ăn ở một cách qua loa hời hợt lây lất cho qua cuộc sống trước mắt"; cũng có nghĩa là đụng đâu cũng ăn, gặp đâu cũng ở mà không cần biết đến ngày mai hay hậu qủa sẽ ra sao. Như trong đêm Kim Kiều gặp gỡ ước hẹn đá vàng với nhau, khi "Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi", thì Thúy Kiều đã "stop" chàng Kim lại:

                      Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
                    Thì con người ấy ai cầu mà chi.
                       Phải điều Ăn XỔI Ở THÌ,
                  Tiết trăm năm nở bỏ đi một ngày !?

      Nhưng ĂN XỔI Ở THÌ cũng như DỮ THẾ PHÙ TRẦM không phải lúc nào cũng có nghĩa tiêu cực xấu xa. Trong một tình huống hay một hoàn cảnh xã hội nào đó NÓ cũng có nghĩa tốt của nó, như câu nói: "...Trong thời buổi nhiễu nhương loạn lạc nầy đành phải ĂN XỔI Ở THÌ (hay DỮ THẾ PHÙ TRẦM) cho qua ngày đoạn tháng mà thôi!...
                    
                       

      Tệ hơn ĂN XỔI Ở THÌ một bâc là GIÁ ÁO TÚI CƠM. Rất nhiều bạn trẻ hỏi tôi: "GIÁ ÁO TÚI CƠM là gì vậy chú? Cháu nghe nói hoài mà không biết nghĩa chính xác của nó là gì?!"
      GIÁ ÁO TÚI CƠM chữ nho là Y GIÁ PHẠN NANG 衣 架 飯 . Y GIÁ là cái giàn, cái giá để móc (máng) áo quần; PHẠN NANG là cái túi để đựng cơm. Cái GIÁ để máng ÁO và cái TÚI để đựng cơm chỉ có công dụng để làm được hai việc đó mà thôi. Thành ngữ nầy dùng để chỉ những người mà thân mình chỉ như cái giá để máng áo lên và cái bụng thì như cái túi để đựng cơm; tức là những con người chỉ biết MẶC QUẦN ÁO và ĂN CƠM, ngoài ra không biết làm gì nữa cả. Tóm lại, Thành ngữ nầy dùng để chỉ những người VÔ DỤNG, không nên thân, không làm nên tích sự gì cả, chỉ biết mặc quần áo và ăn cơm mà thôi!
       
      Y GIÁ PHẠN NANG có xuất xứ từ Tam Quốc Diễn Nghĩa hồi thứ 23 三 国 演 义  第 二 三 回:Có đoạn... 帝 覽 表,以 付 曹操。操 遂 使 人 召 衡 至。禮 畢,操 不 命 坐。禰 衡 仰 天 歎 曰:「天 地 雖 闊,何 無 一 人 也!」操 曰:「吾 手 下 有 數 十 人,皆 當 世 英 雄,何 謂 無 人?」衡 曰:「願 聞。」操 曰:「荀 彧、荀 攸、郭 嘉、程 昱 機 深 智 遠,雖 蕭 何、陳 平 不 及 也。張 遼、許 褚、李 典、樂 進 勇 不 可 當,雖 岑 彭、馬 武 不 及 也。呂 虔,滿 寵 為 從 事;于 禁、徐 晃 為 先 鋒。夏侯惇,天下奇才;曹子孝,世間福將。安得無人?」衡笑曰:「公 言 差 矣。此 等 人 物,吾 盡 識 之:荀 彧 可 使 弔 喪 問 疾,荀 攸 可 使 看 墳 守 墓,程 昱 可 使 關 門 閉 戶,郭 嘉 可 使 白 詞 念 賦,張 遼 可 使 擊 鼓 鳴 金,許 褚 可 使 牧 牛 放 馬,樂 進 可 使 取 狀 讀 詔,李 典 可 使 傳 書 送 檄,呂 虔 可 使 磨 刀 鑄 劍,滿 寵 可 使 飲 酒 食 糟,于 禁 可 使 負 版 築 牆,徐 晃 可 使 屠 豬 殺 狗。夏 侯 惇 稱 為『完 體 將 軍』,曹 子 孝 呼 為『要 錢 太 守』。其 餘 皆 是 衣 架、飯 囊、酒 桶、肉 袋 耳!」... Vua xem tờ biểu xong, đưa cho Tào Tháo 曹 操, Tào Tháo bèn sai người triệu Nễ Hành 禰 衡 đến. Làm lễ xong, Tào Tháo không mời ngồi. Nễ Hành ngửa mặt lên trời than rằng: “Trời đất tuy rộng, nhưng sao không có lấy một người.” Tào Tháo nói: “Thủ hạ của ta có đến mấy chục người, đều là anh hùng trong đời, sao lại bảo là không có người?” Nễ Hành nói: “Xin được nghe là những ai?” Tào Tháo đáp rằng: “Tuân Úc 荀 彧, Tuân Du 荀 攸, Quách Gia 郭 嘉, Trình Dục 程 昱, mưu trí sâu xa... dù là Tiêu Hà 蕭 何, Trần Bình 陳 平 theo cũng không kịp; Trương Liêu 張 遼, Hứa Chử 許 褚, Lý Điển 李 典, Nhạc Tiến 樂 進 dũng mãnh không ai bằng... dù là Sầm Bành 岑 彭, Mã Vũ 馬 武 theo cũng không kịp; Lữ Kiền 呂 虔, Mãn Sủng 滿 寵 là tùng sự; Vu Cấm 于 禁, Từ Hoảng 徐 晃 làm tiên phong. Hạ Hầu Đôn 夏 侯 惇 là kỳ tài trong thiên hạ; Tào Tử Hiếu 曹 子 孝 là phước tướng ở trên đời, sao lại bảo là không có người?” Nễ Hành cười đáp rằng: “Ông nói sai rồi. Những người đó tôi đều biết cả: Tuân Úc có thể sai đi điếu tang thăm bệnh, Tuân Du có thể sai đi canh mồ giữ mả, Trình Dục có thể sai đóng cửa giữ nhà, Quách Gia có thể sai ngâm thơ đọc phú, Trương Liêu có thể sai đánh trống khua chiêng, Hứa Chử có thể sai chăn trâu thả ngựa, Nhạc Tiến có thể sai tiếp thư đọc chiếu, Lý Điển có thể sai đưa tờ truyền hịch, Lữ Kiền có thể sai mài dao đúc kiếm, Mãn Sủng có thể sai uống rượu húp hèm, Vu Cấm có thể sai vác gỗ xây tường, Từ Hoảng có thể sai mổ heo giết chó. Hạ Hầu Đôn là Tướng quân chỉ biết bảo vệ thân mình, còn Tào Tử Hiếu là Thái thú chỉ biết vòi tiền người khác. Còn lại đều là phường giá áo, túi cơm, thùng rượu, túi thịt cả.” (Kỳ dư giai thị Y GIÁ, PHẠN NANG, TỬU DŨNG, NHỤC ĐẠI nhĩ 其 餘 皆 是 衣 架, 飯 囊, 酒 桶, 肉 袋 耳). Ngoài "GIÁ ÁO TÚI CƠM" ra, Nễ Hành còn chê những người vô dụng như là: "Thùng đựng rượu và Túi đựng thịt" chỉ biết uống rượu ăn thịt mà thôi chớ không làm nên trò trống gì cả!
                             
             
         Về "Thùng đựng Rượu" để chỉ những người chỉ biết có uống rượu mà không biết làm việc gì khác cả. Ta gọi những tay bơm nhậu đó là "Be Rượu"(là cái be sành để đựng rượu) hay còn gọi là "Hủ chìm", ý là suốt ngày cứ chìm trong hủ rượu mà không lo chí thú làm ăn gì hết!

     Riêng từ "Túi đựng thịt" ta còn nói là "Cái bị đựng thịt" và nói gọn lại là "BỊ THỊT", nên khi mắng ai là "Thứ cái đồ BỊ THỊT !", có nghĩa là mắng người đó là "Đồ vô dụng!". Nhưng trong "tập quán ngôn ngữ" của ta, khi mắng là "Đồ bị thịt" còn có nghĩa ám chỉ đó là "Những người to xác mà đần độn", lớn đầu mà không nên thân. Tóm lại:

     GIÁ ÁO, TÚI CƠM, THÙNG RƯỢU, BỊ THỊT đều là những từ dùng để diễn tả những người vô tích sự, vô dụng chỉ biết ăn ngon mặc đẹp nhậu nhẹt bê tha mà không làm nên trò trống gì được cả! Thay vì con người MẶC ÁO ĂN CƠM thì phải làm việc, đằng nầy cái thân mình như cái GIÁ để MÁNG cái áo lên và cái bụng thì như cái TÚI chỉ để CHỨA cơm, chứa rượu, chứa thịt mà thôi. Vô tích sự đến thế là cùng! Như cụ Nguyễn Du đã so sánh và ca ngợi anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều với lũ bất tài nói trên là:

                      Phong trần mài một lưỡi gươm,
                   Những phường GIÁ ÁO TÚI CƠM sá gì !
                     Nghênh ngang một cõi biên thùy,
                   Thiếu gì cô qủa, thiếu gì đế vương !
               
                

     Cũng cùng một thành ngữ, nhưng trong tiếng Hoa lại có nghĩa khác hơn trong tiếng Việt ta. Ví dụ như câu:
     "NGỰA QUEN ĐƯỜNG CŨ" có gốc từ thành ngữ: LÃO MÃ THỨC ĐỒ 老 馬 識 途 là những con ngựa già nhận biết được đường cũ đã đi qua. Thành ngữ này có xuất xứ từ Hàn Phi Tử. Thuyết Lâm Thượng 韓 非 子.說 林 上 như sau:

     Tề Hoàn Công là Bá chủ lúc bấy giờ, theo yêu cầu của nước Yên, xuất quân chinh phạt Cô Trúc Quốc của Sơn Nhung. Lúc đi là mùa Xuân, nhưng khi về lại là mùa Đông. Cây cỏ lá hoa cảnh vật đều thay đổi cả; nên bị lạc trong sa mạc núi non mù mịt không biết đường ra. Đang cơn bối rối, Thừa tướng Quản Trọng bèn nghe theo những người lính già, thả những con ngựa già ra rồi cho quân đi theo. Qủa nhiên, ra khỏi được nơi bị lạc với sa mạc mênh mông, nên thành ngữ "LÃO MÃ THỨC ĐỒ" dùng để chỉ sự đắc dụng của những người có kinh nghiệm từng trãi, có vốn sống phong phú.        
      
     Còn câu "NGỰA QUEN ĐƯỜNG CŨ" của ta thì không có ăn nhập gì đến kinh nghiệm và từng trãi cả, mà thường được dùng để ám chỉ "Những thói quen khó bỏ của ai đó hoặc của việc gì đó, thường là xấu hơn là tốt", như Cờ bạc, Rượu chè, Trai gái, hút xách ....

        "ĐAO TO BÚA LỚN" có gốc từ câu: Đai Đao Khoát Phủ 大刀 闊 斧. Câu nói nầy có xuất xứ từ truyện Thủy Hử của Thi Nại Am đời Minh《水 滸 傳》第 三 四 回 Hồi thứ 34 có câu: "...Tần Minh từ biệt quan Tri Phủ, phi thân lên ngựa, triển khai đội hình với ĐAO TO BÚA LỚN rầm rộ tiến về Thanh Phong Trại..." nên ĐAO TO BÚA LỚN có nghĩa: Dùng thực lực mạnh mẽ để tấn công cướp trại hay đánh trận. Nhưng "ĐAO TO BÚA LỚN" của ta hiện nay được sử dụng để chỉ sự khoát lác hoặc nói năng mạnh bạo qúa đáng qúa mức của ai đó, chưa biết có làm được việc gì không, nhưng lại sử dụng toàn những từ ngữ "ĐAO TO BÚA LỚN"!
                                            
              
       Điều lý thú nhất là lắm khi hai từ cùng một nghĩa gốc, nhưng lại diễn hai ý hoàn toàn khác biệt nhau, như: Hai cặp từ kép CAN QUA và MÂU THUẪN dưới đây :

    *CAN QUA 干 戈 :
       - CAN  干 : là Có Quan Hệ, như Can Dự 干 預(與), Can Hệ 干 係, Can Thiệp 干 涉, Can Liên 干 聯, ta nói là Liên Can...

 CAN vừa là Bộ vừa là Chữ theo lối Tượng Hình như sau: 
                      
     Giáp Cốt Văn              Kim Văn Đại Triện    Tiểu Triện      Lệ Thư

                            
Ta thấy ...
     CAN là hình vẽ một loại vũ khí dùng để đi săn thú rừng ngày xưa, đầu có hai mũi chỉa nhọn, dưới có dây thòng lọng, là một loại vũ khí dùng để tấn công. Nhưng sau nầy thường dùng theo nghĩa Phòng Ngự, nên CAN là cái Thuẫn, cái Mộc để chống đở phòng ngự.
 Còn …
    - QUA 戈 : là Một loại vũ khí ngày xưa, làm bằng đồng sắt, có cán dài, dùng để đánh trận, theo chữ viết Tượng Hình như sau:

      Giáp Cốt Văn       Kim Văn Đại Triện                Tiểu Triện     Lệ Thư
                       
   
Ta thấy :
        Đây là một loại vũ khí dùng cho kỵ binh, đầu có móc nhọn, đuôi  có cán dài để tiện việc đánh nhau trên lưng ngựa.
        Nên …
     CAN QUA 干戈 : là Một Đâm Một Đở, một chém một ngăn, là Đánh nhau, là Chiến Tranh. Ta thường hay nghe nói: Dấy động Can Qua là Gây sự đánh nhau, là Phát động Chiến Tranh. Hai câu đầu trong bài sấm Trạng Trình có nhắc đến  từ nầy:

                    Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,   
                       龍 尾 蛇 頭 起 戰 爭,
                    CAN QUA xứ xứ khổ đao binh.      
                      干 戈 處 處 苦 刀 兵。 
Còn từ …

     *MÂU THUẪN 矛 盾 :       
        - MÂU  矛 : cũng là Một loại Vũ Khí ngày xưa dùng để tấn công. Ta thường gọi là cây Thương. Đây là một trong 214 bộ và cũng là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau:

     Giáp Cốt Văn           Kim Văn Đại Triện                Tiểu Triện     Lệ Thư
                        
                                     
Ta thấy :
           Theo Giáp Cốt Văn là hình vẽ của một loại vũ khí đầu có 2 ngạnh, cán dài, đến  Đại Triện lại thêm những phần phức tạp ở đằng đầu cho dễ sát thương, và khi đến Tiểu Triện thì các phần được đơn giản hóa bằng các nét cong và thẳng. 

                               

                   Mâu         Xà Mâu (đầu như con rắn)
Còn …

    - THUẪN 盾 : cũng là chữ Tượng Hình của Cái Mộc, Cái Khiên dùng để đở khi đánh nhau, theo diễn tiến của chữ viết như sau:

     Giáp Cốt Văn          Kim Văn Đại Triện               Tiểu Triện             Lệ Thư
                            
                                  
 Ta thấy :
        Giáp Cốt Văn và Kim Văn Đại Triện phần trên là hình giống như cái mộc cái khiên để che chắn, bên dưới là chữ Mục là con mắt, tượng trưng cho cái mặt, nên THUẪN cũng là dụng cụ dùng để chống đở, che chắn bảo vệ cho thân mình. Thuẫn thường dùng để che trước mặt, nên ai có người giúp đở, che chở, nâng đở ở phía sau lưng thì gọi là: Có HẬU THUẪN.            
                 
                       
           
                              MÂU và THUẪN
Nên …
        MÂU 矛 là vũ khí dùng để đâm, và THUẪN 盾 là cái Mộc cái khiên dùng để đở, như tích sau đây:
       Theo sách Hàn Phi Tử 韩 非 子- chương Nan Nhất 难 一 : Có một người nước Sở ra chợ bán Mâu, rao rằng Mâu của ông ta rất bén nhọn, bất cứ vật gì cứng tới đâu cũng có thể đâm lủng được. Hôm sau, ông ta lại mang ra bán một cái Thuẫn, và lại rao rằng: Thuẫn nầy rất cứng chắc, không có vật bén nhọn nào có thể đâm lủng được cả. Có người hỏi ông rằng: Thế lấy cây Mâu hôm qua của ông có thể đâm lủng được cái Thuẫn này hay không?! Người bán MÂU và THUẪN cứng họng không trả lời được. Mới hay, hai sự việc cực đoan thì không thể song hành tồn tại cùng lúc với nhau được! Cho nên...
                            
        

      *  MÂU THUẪN 矛 盾 : là Hai hoặc nhiều sự việc trái ngược hẵn nhau, thì không thể nào tồn tại song song với nhau được.
    Còn...
      * CAN QUA 干 戈 : là Chiến tranh, là Đánh Giặc, là Giặc Giã.
Ta thấy :
  - CAN và THUẪN cùng có nghĩa là Cái Mộc, Cái Khiên dùng để đở.
  - QUA và MÂU cùng có nghĩa là cây Mác, cây Thương dùng để chém để đâm.

       Nhưng CAN QUA và MÂU THUẪN lại diễn 2 ý hoàn toàn khác nhau:

       Nghĩa của CAN QUA là Chiến tranh, không có liên quan gì đến nghĩa của Mâu Thuẫn cả; cũng như Nghĩa của Mâu Thuẫn là Trái ngược nhau không có liên quan gì đến Chiến Tranh cả!

      Ta thường gặp các Thành Ngữ sau đây :

      - TỰ TƯƠNG MÂU THUẪN 自 相 矛 盾 : là thành ngữ chỉ 2 sự việc trái ngược hẵn nhau cùng xảy ra cùng lúc với cùng một người hoặc cùng một hoàn cảnh, tình huống. Tự mình chống chọi lại mình!
      - DĨ TỬ CHI MÂU, CÔNG TỬ CHI THUẪN 以 子 之 矛,攻 子 之 盾 : là "Lấy cây mâu của ông để tấn công cái thuẫn của ông", như ta thường nói là "Lấy gậy của ông để đập lưng của ông" vậy!

      - PHÁT ĐỘNG CAN QUA 發 動 干 戈 : là Gây ra chiến tranh, là Gây sự đánh nhau. Ta nói là DẤY ĐỘNG CAN QUA hay DẤY ĐỘNG BINH ĐAO (Binh lính và Đao thương cũng tượng trưng cho Chiến Tranh) như Nga hiện nay đang DẤY ĐỘNG CAN QUA để đánh chiếm Ukraina vậy.

     Qua các phần trên, mới hay "TẬP QUÁN NGÔN NGỮ" hay ho, mạnh mẽ và lý thú  biết chừng nào. Hai từ cùng nghĩa như nhau, nhưng theo thói quen sử dụng trong ngôn ngữ lại diễn hai ý hoàn toàn khác nhau như thế.
             

  Dữ Thế Phù Trầm   Y Giá Phạn Nang   Can Qua   Mâu Thuẫn

         Hẹn bài viết tới !
                                                                   杜 紹 德
                                                                 Đỗ Chiêu Đức




MỜI XEM LAI :

Từ Trang GIÓ MIỀN TÂY

  Ta chẳng dám mong đời này hết khổ Chỉ cầu cho đủ sức khỏe vượt qua Nào dám mong thôi hết những xót xa Chỉ thầm ước sau mưa là nắng ráo. Ta...