Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2025

Giai Thoại Văn Chương : DỊCH THỦY TỐNG BIỆT (Đỗ Chiêu Đức)

 Giai Thoại Văn Chương  :  

                                   DỊCH THỦY TỐNG BIỆT

  Năm Nghi Phụng thứ 3 đời Đường Cao Tông (678), Lạc Tân Vương 駱賓王, một trong Sơ ĐườNG Tứ Kiệt, đang giữ chức Thị Ngự Sử, ông nhiều lần dâng sớ can gián làm phật lòng Võ Hậu, nên bị giam vào ngục. Mùa thu năm sau (679), ông được xá tội. Mùa đông năm đó ông đi về đất Yên (thuộc tỉnh Hà Bắc hiện nay) làm Tham Quân trong một doanh trại, quyết lòng ra sức lập công báo quốc. Bài "Dịch Thủy Tống Biệt" được làm trong khoảng thời gian nầy khi ông cảm khái lúc đưa bạn qua dòng sông Dịch.

               易水送別         DỊCH THỦY TỐNG BIỆT
              此地別燕丹,      Thử địa biệt Yên Đan
              壯士髮衝冠。      Tráng sĩ phát xung quan.
              昔時人已沒,      Tích thời nhân dĩ một,
              今日水猶寒。      Kim nhật thủy do hàn !

       Ta đưa bạn ở nơi nầy, nơi mà Kinh Kha 荆軻 đã từng vẩy tay ly biệt với thái tử Đan của nước Yên. Người tráng sĩ ra đi (thích khách Tần Thủy Hoàng) bi hùng cảm khái đến nổi tóc dựng đứng đội cả mão lên. Bây giờ, người xưa tuy đã mất rồi, nhưng dòng nước nơi đây vẫn còn toát hơi lạnh lẽo...
                       Yên Đan giả biệt nơi nầy,
                     Anh hùng tóc dựng tràn đầy hùng ca.
                     Người xưa tuy đã lìa xa,
                     Hôm nay nước vẫn la đà lạnh căm !

       KINH KHA 荆軻 (?-227 trước Công nguyên) cuối thời Chiến Quốc. Kinh Kha vốn người nước Tề, sau thuyên cư sang nước Vệ. Thích đọc sách múa kiếm, người khảng khái trượng nghĩa, sống phóng túng, thích uống rượu. Khi đến nước Yên thì kết giao với một tên đồ tể bán thịt chó và rất thân với một danh sĩ rất giỏi về đàn trúc là Cao Tiệm Ly 高漸離. Mỗi ngày 3 người đều cùng nhậu thịt chó, gảy đàn, ca những khúc ca bi tráng đến nỗi khóc lóc bi thương, cả thành nước Yên họ đều xem như chỗ không người. Tuy nhiên lúc tỉnh táo thì Kinh Kha là người rất thâm trầm, thông kinh sách và giỏi võ nghệ, kết giao với nhiều danh sĩ của các nước lúc bấy giờ.
       Trong bài số 6 của "Vịnh Sử bát thủ 咏史八首" nhà thơ Tả Tư 左思 đời Ngụy Tấn có 4 câu thơ như sau :

                     荆軻飲燕市,    Kinh Kha ẩm Yên thị,
                     酒酣氣益震。    Tửu hàm khí ích chấn.
                     哀歌和漸離,    Ai ca hòa Tiệm Ly,
                     謂若傍無人。    Vị nhược bàng vô nhân !
       Có nghĩa :
                        Kinh Kha uống rượu chợ Yên,
                 Rượu say khí thế ngang nhiên bất phàm.
                        Tiệm Ly cùng hát họa đàn,
                 Thiên hạ mặc kệ ngang tàng như không ! 
 
       Hiệp khách danh sĩ của nước Yên là Điền Quang 田光 biết Kinh Kha không phải là kẻ tầm thường. Điền Quang là du hiệp đã về già nhưng rất nổi tiếng, nên được Thái Tử Đan rất trọng dụng. Lúc Bấy giờ đã cuối thời Chiến Quốc, nên chỉ còn lại có Chiến Quốc Thất Hùng (là Bảy nước hùng mạnh nhất), đó là : Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở, Yên và Tần. Nước Tần là nước mạnh nhất, nên có dã tâm muốn gồm thâu lục quốc. Trước mắt Tần đã đánh chiếm nước Hàn rồi, sẽ lăm le đánh chiếm nước Triệu trong nay mai. Sẵn đang căm thù vua Tần đã ngược đãi mình khi cùng làm con tin ở nước Triệu và cũng để giữ an toàn cho nước Yên, Thái tử Đan bàn với Điền Quang định ám sát vua Tần. Điền Quang bèn tiến cử Kinh Kha là người tài giỏi và còn trẻ hơn mình, rồi tự sát để cho Thái Tử Đan yên tâm mình không tiết lộ về chuyện muốn hành thích Tần Thủy Hoàng và để cho Kinh Kha hết lòng giúp Thái tử Đan.
       Sau khi Điền Quang chết, Thái tử Đan tiếp đãi Kinh Kha như một bậc thượng khanh, cho ở nhà cao cửa rộng, kẻ hầu người hạ toàn là người đẹp, ăn uống toàn là cao lương mỹ vị, lại thường tới lui thăm hỏi, dâng tặng lễ vật quý giá. Lúc bấy giờ có tướng Phàn Ô Kỳ 樊於期 (Tên người nên phải đọc Ư 於 thành Ô) của nước Tần là bạn cũ của Thái tử Đan, bỏ Tần theo về với Yên, cũng rất được Thái tử  Đan xem trọng. Khi ba người cùng cởi thiên lý mã đi săn bắn. Phàn Ô Kỳ nói với Kinh Kha là gan của thiên lý mã ăn rất ngon. Kinh Kha nói mình chưa được ăn qua và ao ước được ăn thử cho biết. Khi về cung, Thái tử Đan bèn cho người giết con thiên lý mã để lấy gan tặng cho Kinh Kha ăn. Lại một lần, cùng dạo chơi ở Đông Cung Trì, trông thấy có một con rùa nổi lên mặt nước, Kinh Kha nhặt một viên ngói định ném nó. Thái tử Đan ngăn lại và đưa cho Kinh Kha một thỏi vàng để ném rùa chơi cho vui. Lại một lần khác, khi cùng ăn tiệc ở Dương Hoa Đài trong cung, có một đoàn mỹ nữ ca múa giúp vui. Trong đó có một cô có đôi tay thật đẹp, múa thật hay. Kinh Kha buộc miệng khen :"Đôi tay đẹp quá !". Thế là sau buổi tiệc, Thái tử Đan cho chặt "đôi tay đẹp quá" của nàng cung nữ đặt lên mâm cho người mang đến tặng cho Kinh Kha ! Kinh Kha đã cảm khái thốt lên rằng : Thái tử đãi ta quá hậu !".
       Năm 227 trước Công nguyên, tướng Tần là Vương Tiễn đánh chiếm nước Triệu và bắt vua Triệu làm tù binh. Đại quân Tần đang lăm le biên giới phía nam của nước Yên bên bờ sông Dịch Thủy. Kinh Kha biết đã đến giờ hành động, bèn xin với Thái tử rằng :"Muốn tiếp cận được vua Tần không phải là chuyện dễ dàng, Thái tử cho thần xin hai món quà để được vua Tần triệu kiến. Một là Đầu của tướng quân Phàn Ô Kỳ mà vua Tần đã treo thưởng ngàn vàng và chức Vạn Hộ Hầu; Hai là Bản đồ vùng Đốc Kháng phì nhiêu của nước Yên để dâng lên cho vua Tần; thì chắc chắn vua Tần sẽ triệu kiến mà thôi." Thái tử Đan nói rằng : "Bản đồ không thành vấn đề, đất nước mất thì còn đâu là bản đồ nữa ! Nhưng Phàn Ô Kỳ là cố tri lại bỏ Tần về với ta, nên ta không nở lòng giết hại". Kinh Kha bèn tìm gặp để thuyết phục Phàn Ô Kỳ; cảm vì tấm chân tình của Thái tử, Phàn Ô Kỳ đã tự sát để hiến đầu mình. 
      Trong "Vịnh Sử Thi" bài "Xuân Thu Chiến Quốc Môn Kinh Kha 春秋戰國門荆軻" sau nầy của Chu Đàm 周曇, một thi sĩ thời Tàn Đường có câu :

                    有心為報懷權略,  Hữu tâm vị báo hoài quyền lược,
                    可在於期与地圖。  Khả tại Ô Kỳ dữ địa đồ.
       Có nghĩa :
                     Có lòng báo đáp mang thao lược,
                     Đầu của Ô Kỳ với bản đồ.

Thái tử Đan lại tìm gặp Từ Phu nhân của nước Triệu, dùng một trăm lương vàng để mua lại cây chủy thủ (dao găm) sắc bén, rồi cho thợ rèn nung nóng tẩm thuốc cực độc vào, hễ trầy da thấy máu là sẽ chết ngay. Mọi việc đều chuẩn bị xong xuôi đâu đó, Thái tử Đan lại phái một dũng sĩ của nước Yên là Tần Vũ Dương (Tên nầy đã biết giết người từ năm 13 tuổi) theo làm trợ thủ cho Kinh Kha. Buổi tiễn đưa bên bờ sông Dịch diễn ra thật bi hùng tráng, tất cả quan viên đưa tiễn đều mặc đồ tang trắng một cách trịnh trọng, Thái tử Đan đặt tiệc rượu tiễn hành bên bờ sông, Cao Tiệm Ly người bạn tri âm tri kỷ của Kinh Kha lại gãy tiễn đưa bạn bằng một khúc nhạc bi hùng. Kinh Kha đã rất xúc động và cảm khái mà nương theo tiếng đàn hát hai câu thơ bất hủ là :

               Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,        風蕭蕭兮易水寒,
               Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn !  壯士一去兮不復還 !
Có nghĩa :
                 Gió hiu hiu hề ... nước sông Dịch lạnh,
                 Tráng sĩ một đi hề... chẳng trở về đâu !

       Tiếng đàn lại thánh thót chuyển sang âm Chủy hùng tráng cao vút, làm cho mọi người đều rùng mình sởn tóc gáy dựng đứng cả lên !  Trong bài thơ Vịnh Sử của nhà thơ Nguyễn Vũ 阮瑀 (165—212), một trong Kiến An Thất Tử cuối đời Đông Hán tả lại cảnh tiễn đưa trên bờ sông Dịch như sau :

                  燕丹善勇士。    Yên Đan thiện dũng sĩ,
                  荆軻為上賓。    Kinh Kha vi thượng tân.
                  ....
                  素車駕白馬。    Tố xa giá bạch mã,
                  相送易水津。    Tương tống Dịch Thủy tân.
                  漸離擊築歌。    Tiệm ly kích trúc ca,
                  悲聲感路人。    Bi thanh cảm lộ nhân.
                  舉坐同咨嗟。    Cử tọa đồng tư ta,
                  嘆氣若青雲。    Thán khí nhược thanh vân.
       Có nghĩa :
                     Thái tử Yên Đan trọng người hùng,
                   Kinh Kha là khách tột cùng trong cung.
                       .....
                       Áo trắng xe ngựa trắng trong,
                   Tiễn đưa sông Dịch mà lòng xót xa.
                        Tiệm ly đàn một khúc ca,
                   Qua đường người cũng chan hòa niềm thương
                        Nâng ly cảm khái lên đường,
                   Ngất trời hào khí thẳng đường mây xanh !
  Khi đến nước Tần, Kinh Kha lại mang lễ vật đáng giá ngàn vàng do Thái tử Đan chuẩn bị sẵn tặng cho cận thần sủng ái của Tần Vương là Mông Gia, nên rất nhanh đã được vua Tần triệu kiến. Hôm triều kiến Tần Vương Kinh Kha cầm chiếc hộp có đựng đầu lâu của tướng Phàn Ô Kỳ, còn bản đồ đất Yên cuộn tròn đựng trong một chiếc hộp khác do trợ thủ của Kinh Kha là Tần Vũ Dương cầm. Không ngờ khi vào chầu vua Tần ở chính điện, trông thấy khí thế uy nghiêm của triều đình vua Tần, Tần vũ Dương mất bình tĩnh tay run mặt tái. Sau khi trình đầu của phản tướng Phàn Ô Kỳ, Kinh Kha bèn giựt cái hộp đựng bản đồ trên tay Tần Vũ Dương mà biện minh với vua Tần : Đây là tên quê mùa hèn nhát chưa từng thấy qua vẻ uy nghiêm của bệ hạ, xin hãy thứ tội. Đoạn bước tới mở hộp trình cuộn bản đồ nhượng đất lên cho vua Tần. Khi mở đến cuối bức bản đồ thì một con dao găm (chủy thủ) hiện ra. Kinh Kha rất nhanh, tay trái nắm lấy tay áo của Tần Vương còn tay phải thì chụp con dao găm đâm thẳng vào ngực vua Tần. Nhưng vì trước đó vua Tần đã cảnh giác khi trông thấy thái độ run sợ kỳ lạ của Tần Vũ Dương nên đã có phòng bị. Trong cơn hoảng loạn vua Tần giựt rách tay áo, né khỏi con dao của Kinh Kha và chạy vòng quanh các cây cột lớn trong chánh điện để né tránh Kinh Kha truy đuổi. Các quan dưới điện trông thấy vội vã nhắc vua Tần rút lưỡi kiếm đang đeo phía sau lưng chém vào đùi Kinh Kha, Kinh Kha bị thương bèn phóng lưỡi chủy thủ về phía vua Tần, nhưng chủy thủ lại ghim vào cột điện... Mưu sát bất thành, Kinh Kha vong mạng và nước Yên cũng nhanh chóng rơi vào tay nước Tần...
      Vì tích trên mà ta lại có được môt thành ngữ nữa là ĐỒ CÙNG CHỦY HIỆN 圖窮匕見 là "cuối bản đồ thì dao găm hiện ra" để chỉ những việc gì đó đến mức cuối cùng cũng sẽ lộ ra chân tướng thật sự của nó mà thôi !     
      Thi sĩ nổi tiếng là khổ ngâm Giả Đảo ở buổi Tàn Đường cũng có bài thơ "Dịch Thủy Hoài Cổ 易水懷古" như sau :

                    荆卿重虚死,    Kinh Khanh trọng hư tử,
                    節烈書前史。    Tiết liệt thư tiền sử.
                    我嘆方寸心,    Ngã thán phương thốn tâm,
                    誰論一時事。    Thùy luận nhất thời sự.
                   至今易水橋,    Chí kim Dịch Thủy kiều,
                    寒風兮萧萧。    Hàn phong hề tiêu tiêu.
                    易水流得盡,    Dịch thủy lưu đắc tận,
                    荆卿名不消。    Kinh Khanh danh bất tiêu !
                  

        Có nghĩa :
                      Nhẹ xem cái chết Kinh Khanh,*
                   Tiết liệt còn đó sử xanh ghi vào.
                      Tấc lòng ta cảm biết bao,
                   Ai bàn thế sự luận vào nói ra.
                      Đến nay sông Dịch nước nhòa,
                  Hiu hiu gió thổi hề... hà lạnh căm.
                      Sông Dịch nước chảy quanh năm,
                  Kinh Khanh còn đó tiếng tăm muôn đời !

        * Kinh Khanh : Một cách gọi riêng tên của Kinh Kha.
                   
       Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt "Kinh Kha 荆軻" của Trương Lỗi 張耒 đời Bắc Tống đã đánh giá bao quát về sự việc hành thích Tần Vương như sau :

                      燕丹計盡問田生,   Yên Đan kế tận vấn Điền sinh,
                      易水悲歌壯士行。   Dịch Thủy bi ca tráng sĩ hành.
                      嗟爾有心雖苦拙,   Ta nhĩ hữu tâm tuy khổ chuyết,
                      區區两死一無成。   Khu khu lưỡng tử nhất vô thành !
       Có nghĩa :
                      Yên Đan hết kế hỏi Điền Quang,
                      Sông Dịch bi ca tráng sĩ sang.
                      Tận lực khá thương tâm chẳng đạt,
                      Chẳng thành hai mạng lại chết oan !

       Không phải chỉ có 2 mạng (lưỡng tử) mà đến 4 người phải chết trong việc hành thích Tần Vương chẳng thành : Trước tiên là Điền Quang, rồi đến Phàn Ô Kỳ và sau hết là Tần Vũ Dương và Kinh Kha. Cho nên trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến nhà thơ Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình đã viết trong bài VỌNG NHÂN HÀNH là :

                      Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch
                      Ta ghét hoài câu “nhất khứ hề”...

     ... và lại làm cho ta nhớ đến bài TỐNG BIỆT HÀNH cũng của nhà thơ Thâm tâm thời Tiền Chiến :
                     Đưa người ta không đưa qua sông
                     Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
                     Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
                     Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong  !

       Không phải văn thi sĩ nào cũng ca ngợi và tán dương Kinh Kha; Chu Hy (1130~1200)một nhà thơ, nhà giáo, nhà tư tưởng... đời Nam Tống, đã nhận xét đánh giá về Kinh Kha như sau :

                     軻匹夫之勇,   Kha thất phu chi dũng,
                     其事無足言。   Kỳ sự vô túc ngôn !
       Có nghĩa :
                          Kinh Kha cái dũng thất phu,
                Chuyện làm chẳng đáng xuân thu lưu truyền !

       Nhà giáo dục, nhà tư tưởng Chu Hy cho rằng :"Kinh Kha chỉ là cái dũng của kẻ tầm thường, câu chuyện của anh ta chẳng có gì đáng bàn đáng nói cả !"

                    Inline image

       Theo ý bạn, thì bạn nghĩ như thế nào về nhân vật Kinh Kha ?!

       Hẹn bài viết tới !
                    
                                                                                      杜紹德
                                                                                  Đỗ Chiêu Đức


Mời Xem:




     




Phát hiện chấn động Núi Bà Đen trung tâm văn hóa của Người Việt Cổ (P.2 )


Biển và đầm phá ở phía tây

Trong xã hội Peru hoặc xã hội Inca khoảng năm 1.500 sau Công nguyên, biểu tượng hình vỏ sò đại diện cho một khối nước lớn, biển (3). Vòng tròn nhỏ tượng trưng cho một khối nước, một đầm phá (3). Một con sông đã đổ nước từ đầm phá ra biển. Các diễn giải của Peru về “Biển” và “Phá” phù hợp với các văn bản Trung Quốc cổ đại “Kinh Dịch” và chúng đại diện cho hai trong tám yếu tố chính trong Chủ nghĩa nhị nguyên Đông Á cổ đại của Bát-Quái. Bài báo năm 2024 (4, 5) cũng xác định chúng là “Biển” và “Phá”.

“Biển” và “đầm phá” được đặt ở bên phải của Atlas, hoặc ở phía tây.

Nhưng “Biển Tây” không phải là góc nhìn của người xem từ Trung Quốc đại lục đến Bắc Việt Nam vào thời kỳ tiền Dryas trẻ.

Sunda Land là một vùng đất lộ thiên trong thời kỳ Dryas Cũ nhất và Cũ hơn. Trong thời kỳ Dryas Trẻ hơn, thềm Sanda đã bị ngập nước nhanh chóng (18-20). Các nhà thủy văn học (21, 22) mô tả lưu vực sông Mã Lai ở Vịnh Thái Lan ngày nay như các hồ nội địa hoặc biển từ Dryas Cũ nhất đến Dryas Trẻ hơn, như được thể hiện trong Hình Bốn. Tuy nhiên, kích thước, hình dạng, số lượng, vị trí và thời gian của chúng khác nhau. Thiếu của một cuộc khảo sát chi tiết, các nhà nghiên cứu này đã thu được kết quả của họ phần lớn dựa trên mô hình của USGS dữ liệu, v.v.

Hình minh họa trong Hình Bốn cho thấy một vùng biển nội địa ở lưu vực Maya trên đất Sunda trong Thời kỳ Dryas cổ nhất cách đây 15.000 năm. Biển nằm ở phía tây.

Núi Ba Đỉnh ở phía đông

Biểu tượng này được hiểu là “Pacha Mama” hoặc “Earth Mama”, một biểu tượng của thế giới hoặc Trái đất ở dãy Andes của Nam Mỹ hoặc trong xã hội Inca khoảng năm 1500 sau Công nguyên (2, 3). Nó được đặt ở bên trái hoặc phía Đông. Đạo năm 2024 (4, 5) diễn giải lại nó như một ngọn núi ba đỉnh được bao quanh. Vòng tròn được đề xuất để đại diện cho thiên đường. Núi Ba Đỉnh được cho là thiêng liêng. Ba đỉnh liên tiếp của nó kết hợp với bốn mái vòm trong Ngân Hà hoặc cầu vồng tạo thành một đường ống bảy tầng từ Trái Đất đến Thiên Đường, như được thể hiện trong Atlas.

Nhưng sau đó người ta cho rằng, không có bất kỳ lý do nào, rằng nó sẽ đại diện cho một mô tả chung về tất cả các ngọn núi hoặc bất kỳ ngọn núi nào, không nhất thiết phải là một ngọn núi cụ thể có ba đỉnh với ở giữa là cao nhất.

Biểu tượng Peru này sau đó có lẽ đã phát triển thành chữ “núi” trong tiếng Trung Quốc cổ đại

Tập lệnh Oracle Bone(1.200 TCN) và trong chữ hình nêm nguyên thủy của Lưỡng Hà (3.000 TCN)(23,24) khi chữ viết thay thế nút thắt trên dây thừng (25) trong thời kỳ đồ đá mới. Những hình ảnh tượng hình cổ đại này các ký tự hoặc dấu hiệu biểu tượng của “núi” đều có ba đỉnh với đỉnh ở giữa là cao nhất. Ý nghĩa thiêng liêng của nó thể hiện rõ ở Nam Mỹ, Trung Quốc cổ đại và Lưỡng Hà. Một trong những văn bản Trung Quốc cổ xưa nhất và thiêng liêng nhất là Shan Jing “Kinh điển của “Núi” trớ trêu thay là những câu chuyện kể về các sự kiện thời tiền sử hoặc thời đồ đá cũ và cách thức Thuyết Bát Quái của Trung Quốc được hình thành vào thời kỳ đồ đá mới.

Ý nghĩa tôn giáo của nó được thể hiện bằng một biểu tượng tượng trưng phù hợp trong thế giới cổ đại ngụ ý rằng ngọn núi ba đỉnh có thể tượng trưng cho một ngọn núi thiêng cụ thể như được thể hiện trong Atlas.

Khi tạo ra Atlas, người tạo ra nó đã nhìn thấy ba đỉnh núi phía trên đường chân trời ở phía đông với tâm một là đỉnh cao nhất. Người làm Atlas luôn nhìn thấy đỉnh cao nhất nhưng có thể không nhìn thấy hai đỉnh nhỏ các đỉnh núi bị che khuất khi nhìn về các hướng khác ngoài hướng đông.

Nhiều núi, dãy núi và đảo nằm ở Đông Nam Á giữa vĩ độ 3 độ N đến 14 độ N và gần đó. Xem xét rằng các ứng cử viên tiềm năng phải là ba đỉnh, với trung tâm là cao nhất, khi quan sát chúng về phía đông, người ta chỉ có thể tìm thấy danh sách ngắn.

Núi Bà Đen “Mama Đen”

Ứng cử viên duy nhất được xác định cho đến nay là một ngọn núi ở miền Nam Việt Nam gần biên giới với Campuchia trên bờ Đồng bằng sông Cửu Long. Nó hoàn toàn phù hợp với biểu tượng “Earth Mama” trong Bản đồ Peru.

Vĩ độ địa lý của nó là 11 độ N trong Atlas. Đó là một dãy núi gồm ba đỉnh:11 độ 23’53” Bắc, 106 độ 10’16” E. Tổng hợp lại, nó được biết đến với tên gọi là Núi Bà Đen, Núi “Mama Đen” hay Núi “Bà Đen” (26, 27). Nó có nguồn gốc từ núi lửa, nhô cao trên đồng bằng sông Cửu Long bằng phẳng. Nó trông giống như một hình nón hoàn hảo hoặc Kim tự tháp. Người ta không thể che giấu suy đoán của mình rằng tất cả các kim tự tháp trong thời cổ đại thế giới có thể bắt nguồn từ đây.

“Earth Mama” ở Peru và “Black Mama” ở Việt Nam, Campuchia và Tiếng Trung Quốc

“Bà” trong tiếng Việt Nam bản địa, tiếng Khmer Campuchia hay tiếng Trung Quốc không chỉ đơn thuần là “phụ nữ” hay “trinh nữ”. Nó đại diện cho một con cái đầu đàn, người mẹ, Mama hoặc Bà. Ý nghĩa của nó là “Mama” hoặc “bà” giống như “bà” trong Câu chuyện sáng tạo của người Inca, người Maya, người bản địa khác. Người Mỹ và người Đông Á bao gồm người Khmer Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc và những người khác trên khắp thế giới thế giới. Núi Bà Đen “Mama Đen” tình cờ có hàm ý “Mama Đất” trong Atlas Peru. Người ta cho rằng “đất” có nghĩa là “đất có màu đen”.

Đặc điểm địa hình của nó

Dãy núi Bà Đen có ba đỉnh. Ba đỉnh này được nối với nhau như một dãy núi. Để lên đến đỉnh, người ta bắt đầu từ chân của ngọn núi thấp nhất và uốn lượn từng bước một để lên đến đỉnh cao nhất. Đỉnh cao nhất ở trung tâm là đỉnh Bà Đen “Mama Đen” với độ cao 986 mét mà ngọn núi được đặt tên theo. Hai đỉnh nhỏ trên vai của nó là Đỉnh Con Lợn (Dat) tại 341 mét và Đỉnh Phượng Hoàng (Pheung) ở độ cao 419 mét, như thể hiện trong Hình Năm A và B: Google Địa hình và Ảnh chụp ngọn núi Bà Đen.

Biểu tượng “Earth Mama” ba đỉnh tượng trưng cho ba bậc thang hoặc bậc thang liên tiếp (5) trong Atlas. Biểu tượng của nó rất rõ ràng và không thể nhầm lẫn: để vươn tới thiên đường từ mặt đất, người ta bắt đầu từ chân của đỉnh thấp nhất và đi bộ lên đỉnh của đỉnh cao nhất, từng bậc thang mộtsân thượng, hoặc từng bước. Núi Bà Đen “Mama Đen” có địa hình tương đương với “Mama Trái Đất” trong Atlas, về mặt biểu tượng và tôn giáo.

Góc nhìn về phía đông gợi ý về Đồng bằng sông Cửu Long ở phía Tây Ba đỉnh núi Bà Đen “Mama” chỉ có thể được nhìn thấy đầy đủ ở một khoảng cách hẹp cửa sổ khoảng 50 độ từ Tây-Tây Bắc về phía Đông-Đông Nam khi một người quan sát đứng trên mặt đất phía tây của nó. Ở bất kỳ góc độ nào khác, hai đỉnh nhỏ sẽ chồng lên nhau hoặc bị che khuất, như được chỉ ra trong Hình Năm A và B: Bản đồ địa hình của Google và mặt đất bức ảnh chụp theo góc nhìn phương Đông. Ba đỉnh núi của ngọn núi “Black Mama” là một góc nhìn từ phương Đông.

“Earth Mama” có ba đỉnh trong Atlas Peru cũng là một góc nhìn phương Đông.

Quan điểm phương Đông cho thấy những người quan sát đang ở phía tây của nó. Đồng bằng phẳng ở phía tây của núi Bà Đen “Mama Đen” là nơi Sông Cửu Long chảy qua đồng bằng sông Cửu Long.

Đồng bằng sông Cửu Long được cho là nơi đóng quân của người vẽ bản đồ Peru.

Atlas cho rằng Đồng bằng sông Cửu Long và Núi “Black Mama” trong thời kỳ Cổ nhất Dryas 14.000 – 15.000 năm trước là những địa điểm tôn giáo và xã hội quan trọng của nền văn minh tiên tiến này xã hội.

Hình Năm: A. Địa hình Google của Núi Bà Đen “Mama Đen” có ba đỉnh (11độ23’53” Bắc, 106 độ10’16” Đông); B. Cảnh phía Đông của Bà Đen “Mẹ Đen” Núi. Đỉnh Pheonix cao 419 mét, Đỉnh Bà Đen “Mama Đen” ở độ cao 986 mét, và đỉnh Pig Peak cao 341 mét.

Một ngọn núi thiêng được tôn vinh vì Mẹ

Núi Bà Đen “Mama Đen” là và vẫn là một ngọn núi thiêng (27). Nhiều ngôi đền cổ, đền thờ hang động và tàn tích nằm trên Núi. Một số vị thần đã được biết đến. Họ đến từ các tôn giáo và thời đại khác nhau, mỗi tôn giáo có một truyền thuyết khác nhau. Tuy nhiên, những địa điểm này đã được dành riêng cho những nhân vật nữ anh hùng.

Sự độc quyền này của việc thờ cúng Mẫu hệ có cùng hàm ý như “Trái đất” của Peru Mẹ ơi.” Tuy nhiên, “Núi như Nữ tính” là bất thường hoặc ngoại lệ trong một xã hội nhị nguyên. Người ta biết rằng núi gắn liền với hình ảnh nam tính, không phải nữ tính, như trong xã hội nhị nguyên Việt Nam, Trung Quốc, Peru, v.v.

Tên gọi nữ tính “Black Mama” ở Việt Nam và Khmer Campuchia hoặc “Earth Mama” ở Bản đồ Peru được cho là di sản từ các xã hội mẫu hệ đầu tiên của thời kỳ đồ đá cũ Người Úc. Có thể đó là một truyền thống tồn tại qua các xã hội gia trưởng sau này, như đã đề cập trong văn bản “Kinh Dịch” của Trung Quốc thời đồ đá mới.

Sấm sét và bão ở phía Đông trên đất Bắc Sunda

Sấm sét

Biểu tượng này tượng trưng cho sấm sét trong xã hội Peru (3). Người Peru này “sấm sét” diễn giải hoàn toàn khớp với các văn bản Trung Quốc cổ đại I Ching và 2024 giấy (4, 5). Nó được đặt ở bên trái hoặc phía Đông.

Nói cách khác, Atlas cho rằng sấm sét thường xuất hiện ở bầu trời phía đông.

Bão

Diễn giải của Peru về biểu tượng này ở bên trái là mơ hồ. Một số người đoán rằng nó có thể đại diện cho các dòng sông thiêng địa phương (3). Thành phố Cusco, nơi tìm thấy Atlas Peru (1), nằm ở dãy núi Andes cao và bão không phải là hiện tượng phong hóa cục bộ. Bài báo năm 2024 (4, 5) diễn giải lại nó như một cơn bão hoặc gió mạnh. Nó dựa trên cổ xưa Các văn bản tiếng Trung “Kinh Dịch”, v.v., và “Gió” là một trong tám yếu tố chính ở Đông Á cổ đại Chủ nghĩa nhị nguyên.

Nó được đặt ở bên trái hoặc phía đông.

Bão và sấm sét từ bầu trời phía đông là những kiểu thời tiết hôm nay Philippines,Việt Nam và Trung Quốc ở Đông Nam Á (29). Bão suy yếu đáng kể khi đến Campuchia. Nó hiếm khi đến Thái Lan ở phía tây.

Bão di chuyển quãng đường dài qua Thái Bình Dương từ nơi sinh của chúng gần

đường xích đạo. Đường đi về phía tây của chúng ở vùng biển nhiệt đới phía bắc gần đường xích đạo đã được biết đến rộng rãi được ghi chép và mô hình hóa (30). Người ta có thể kết luận rằng bão và sấm sét đã xảy ra ở bầu trời phía đông vào thời kỳ tiền Younger.

Dryas Sunda Đất nằm trong vĩ độ 3 độ N đến 14 độ N, cụ thể là ở lưu vực sông Mê Kông phía bắc Đường Xích Đạo.

Tuy nhiên, vùng đất Sunda phía nam đường Xích đạo không phải là khu vực mà Atlas có nguồn gốc. Khi xảy ra bão, bão sẽ có đường đi về phía đông ở phía nam đường Xích đạo.

Cây cao ở phía Tây và hạt và trứng ở phía Đông

Biểu tượng này là biểu tượng hiển nhiên của cây, một cây cao. Nó được đặt ở bên phải, hoặc ở phía tây trong Atlas.

Biểu tượng này được hiểu là trái cây, hạt từ cây, hoặc trứng do chim, bò sát hoặc lưỡng cư. Điều đó là hiển nhiên. Nó được đặt ở bên trái, hoặc ở phía đông.

Những diễn giải của họ về Peru (2, 3) giống hệt với bài báo năm 2024 (4, 5).

Trong thời kỳ Dryas cổ nhất và Dryas cũ hơn cách đây 14.000 đến 15.000 năm, Sunda phía Bắc Đất đai và môi trường xung quanh có những cánh rừng mưa nhiệt đới rộng lớn thường xanh, rụng lá và bán rụng lá. cây rụng lá (28, 22). Những cây này cũng có quả hoặc hạt.

Vùng đất Sunda phía Bắc và vùng xung quanh có hệ thống sông rộng lớn với nhiều nhánh sông lớn và các lưu vực (18). Các loài bò sát và lưỡng cư mang trứng như rắn và rùa rất nhiều.

Chim đẻ trứng rất nhiều ở các khu rừng mưa nhiệt đới. Người ta thường biết rằng Sunda Đất được coi là nơi sinh ra nhiều loài này.

Phần kết luận

Bản đồ Thiên đường và Trái đất của Peru được tìm thấy trong đền thờ Mặt trời của người Inca đã được xác định có nguồn gốc từ một xã hội tiền Dryas trẻ hơn khoảng 14.000 năm tuổi, cùng một kết luận như trong bài báo năm 2024 (4, 5).

Vị trí của nó được xác định là vùng đất Sunda phía bắc được giới hạn bởi hai vĩ độ song song dòng, 3 độ N và 14 độ N. Nhìn chung, nó nằm ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á ở bán cầu bắc. Nó bao gồm ngày nay Campuchia, Việt Nam, Thái Lan, hai lưu vực sông cổ là Xiêm La và sông Cửu Long, dưới Vịnh Thái Lan và Biển Hoa Đông, v.v.

Hơn nữa, một ngọn núi ba đỉnh có tên là “Earth Mama” trong Atlas đã được chú ý được xác định là núi Bà Đen “Mama Đen” ở Đồng bằng sông Cửu Long tại Việt Nam giáp ranh Campuchia.

Xã hội tiền Dryas trẻ này dường như có thiên văn học, lịch được ghi chép sớm nhất, đếm, địa lý, khí tượng, tôn giáo nhị nguyên, vũ trụ học, triết học, cấu trúc gia đình với đàn ông và đàn bà, và các quốc gia với những người cai trị, v.v. (4, 5).

Nội dung của Atlas Peru như Chủ nghĩa nhị nguyên cũng được tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Campuchia, Châu Mỹ, Lưỡng Hà thời đại đồ đồng, Ấn Độ, Ai Cập, Israel, v.v.

Bởi vì Atlas Peru đã khá tiên tiến, người ta suy đoán rằng nó có thể đến từ một thậm chí là phiên bản cũ hơn do người dân cổ xưa sinh sống ở vùng đất Sunda hoặc những nơi khác thực hiện.

Những phát hiện này ủng hộ giả thuyết được tranh luận sôi nổi về nền văn minh trước thời kỳ Dryas trẻ Vùng đất Sunda có ảnh hưởng đến các nền văn minh sau này trên toàn thế giới. Nó cũng nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết về các nghiên cứu có hệ thống về các nền văn hóa và nền văn minh cổ đại và giao tiếp của họ, mà không có định kiến ​​coi họ là biệt lập hay phát triển độc lập sự việc xảy ra.

Cảm hứng

Hy vọng rằng những phát hiện này sẽ truyền cảm hứng cho một thế hệ các nhà khoa học, nhà khảo cổ học, nhà nghiên cứu độc lập mới các nhà nghiên cứu và những người khác để khám phá những chủ đề khoa học vô cùng quan trọng nhưng đáng lo ngại này đã thu hút sự chú ý lớn của công chúng trên toàn thế giới.

Lời cảm ơn

Đây là nghiên cứu độc lập và tự tài trợ. Công trình của nó không có mối liên hệ nào với tác giả mối quan hệ trong quá khứ hoặc hiện tại.

Tác giả xin cảm ơn Giáo sư Carmen Bernand vì những bình luận và phản hồi vô giá của bà.

Phát hiện chấn động Núi Bà Đen trung tâm văn hóa của Người Việt Cổ - Hà văn Thùy ( P.1 )- Nghiên Cứu Lịch Sử

 

Thomas Dao

Từ Đại học Massachusetts , Tiến sỹ Thomas Đào gửi cho tôi bài “Bản đồ thiên đường và trái đất của Peru và mối liên hệ của nó với vùng đất Sunda thời tiền Dryas trẻ và đồng bằng sông Cửu Long ngày nay.”

        Đây là kết quả nhận được từ nhiều năm giải mã “Bản đồ Peru,” một tài liệu cổ nối tiếng. Từ tài liệu này, lần đầu tiên chúng ta biết rằng, khoảng 13.000 năm trước, Núi Bà Đen và vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long xung quanh là trung tâm văn hóa của người Việt. Người ở đây vẽ bản đồ “Thiên đường và Trái đất” rồi sau 12.000 năm BP đã di cư tới Nam Mỹ. Tiếc rằng, suốt 100 năm, từ thời bà Madeleine Colani cho tới nay chúng ta chưa có khám phá khảo cổ nào về vùng đất quan trọng này.

      Đăng lại bài của Tiến sỹ Thomas Đào chúng tôi muốn báo tin rất vui tới cộng đồng và hy vọng các nhà khoa học Việt Nam sẽ bỏ công khảo cứu nền văn hóa quan trọng này. Thay mặt bạn đọc, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sỹ Đào.

Nhà văn Hà Văn Thùy

  Tóm tắt

Một nghiên cứu gần đây về Bản đồ Peru đã tiết lộ một xã hội phân tầng có niên đại 14.000 năm với thiên văn học, địa lý, lịch, tôn giáo, v.v. Bài báo này đề cập đến nguồn gốc của nó nằm trong vĩ độ từ 3 độ Bắc đến 14 độ Bắc ở Đông Nam Á

trên lưu vực sông Mekong và Vịnh Thái Lan Cũ. Vega, ngôi sao Bắc Cực lúc bấy giờ, và ngôi sao Bốn Sao Chữ thập trong Pegasus xuất hiện trên bầu trời phía bắc trong Bản đồ. Núi “Earth Mama” trong Atlas được xác định tạm thời là núi Bà Đen “Mama Đen” ở Đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam giáp với Campuchia. Những phát hiện ủng hộ lý thuyết được tranh luận sôi nổi về xã hội ở vùng đất Sunda thời tiền Dryas trẻ đã tác động đến các nền văn minh sau này trên toàn thế giới. Địa điểm được cho là “Earth Mama” có thể tiếp cận được để nghiên cứu thêm.

Bối cảnh và mục đích của nghiên cứu

Bản đồ thiên đường và trái đất của Peru là một bức tranh vẽ trên một tấm bảng trong một căn phòng như một bức tranh trang trí trên bệ thờ (1) trong

Đền Mặt Trời Inca, Thành phố Cusco của Peru, Nam Mỹ, được gọi là “Qhelqa” của Qorikancha. Juan Santa Cruz Pachacuti đã sao chép bức vẽ trong biên niên sử của mình năm 1613 (2). Đó được coi là một vũ trụ quan, tôn giáo, hệ tư tưởng và triết học nhị nguyên của xã hội Inca (khoảng năm 1500

  1. AD) và người Inca Chakana được gọi là Thập giá Andean (1, 3).

Năm 2024, Thomas Tao đã công bố một nghiên cứu đa ngành về hội họa tại Hội đồng Peru.  Phát hiện cho thấy bức vẽ là một Atlas về Trời và Đất thời tiền Dryas trẻ hơn 14.000 năm tuổi (4, 5). Theo báo cáo năm 2024, Bản đồ thiên đường và trái đất của Peru minh họa một xã hội phân tầng có lẽ là sớm nhất thiên văn học được ghi chép, lịch, số đếm, địa lý, khí tượng học, tôn giáo nhị nguyên, vũ trụ học, triết học, cấu trúc gia đình gồm đàn ông và đàn bà, và nhà nước có người cai trị, v.v. Cụ thể, Atlas có chứa “Năm ngôi sao thần thánh” là Mặt trời, Mặt trăng, Sao Kim mọc, Sao Kim lặn. Sao Kim và sao Cực Vega của 12.000 năm trước Công nguyên. Chúng được gọi là “Năm vị thần” ở phương Đông cổ đại.

Giống như Đông Á, Atlas có “Bốn con vật linh thiêng” trên đường hoàng đạo đại diện cho Bốn vị thần chính là Antares (Rồng), Five-Star Cross trong Leo (Chim), Stars trong Orion và Kim Ngưu (Mèo) và Thập tự giá bốn sao ở cung Phi Mã (Rắn/Rùa).

Trong Atlas, một ngọn núi ba đỉnh đứng ở phía đông. Bão và sấm sét ở phía đông. Ở phía tây, một con sông đổ nước từ một hồ hoặc đầm phá ra biển.

Atlas có một số ẩn dụ. Ví dụ như Sáng thế của Bảy ngày Sáng tạo, Chu kỳ cuộc sống, Thánh giá Andes, Thánh giá tám cạnh của người Maya và Bát Quái của thuyết nhị nguyên Trung Quốc. Thiên đường tròn, Trái Đất vuông, và nhiệm vụ của Đấng Tạo Hóa là phân tầng loài người.

Atlas có hai loại lịch. Cả hai đều có 13 tháng và bốn mùa. Lịch Sidereal có 365

ngày trong năm sử dụng Antares làm điểm bắt đầu của một năm và hợp với mặt trăng.

Lịch có ba tháng “Nhịn” để căn chỉnh với vòng tròn mặt trời.

Một phiên bản thời kỳ đồ đá mới (khoảng 5.300 trước Công nguyên) của Atlas Peru về Thiên đường và Trái đất đã được xác định và được biết đến ở Đông Á (4, 5). Atlas thời đồ đá mới “Hệ từ” được sử dụng để biên soạn Nhị nguyên luận Trung Quốc. Bát Quái theo các văn bản cổ xưa Kinh Dịch (khoảng 1.000 TCN) v.v. “Hệ Từ” có thể đã tồn tại qua thời nhà Thương Triều đại Trung Quốc (1.600 TCN? – 1.046 TCN) theo các văn bản thời tiền Tần là Quốc Chuẩn (khoảng năm 400 TCN).

Cuộc tranh luận về nền văn minh đã mất đã thu hút được nhiều sự chú ý của công chúng, tác giả, nhà văn và các nhà nghiên cứu. Ví dụ là giả thuyết về nền văn minh đã mất trên vùng đất Sunda sau Dryas cũ (6, 7) và những bí ẩn của Atlantis (8-10). Tuy nhiên, các hiệp hội chuyên nghiệp đã phản đối một số tác phẩm của họ là hư cấu, phi khoa học hoặc bán khoa học, có lẽ là do chúng thiếu dữ liệu.

Bản đồ thiên đường và trái đất của Peru đã được xác định niên đại bằng nhiều phương pháp (5) và tuổi của nó là từ Dryas cổ nhất 13.000 trước Công nguyên đến Dryas muộn hơn 12.000 trước Công nguyên. Atlas được tạo ra trước

Sunda Land và nhiều thềm lục địa đã bị nhấn chìm do mực nước biển dâng cao trong thời gian Dryas thời trẻ.

Bản đồ Peru thời kỳ tiền Dryas trẻ (5) là một sự trùng hợp đáng chú ý của “The Lost Nền văn minh trên đất Sunda (6, 7).”

Ngày nay các nhà nghiên cứu đã coi sự di cư của người Đông Á cổ đại đến châu Mỹ là việc xảy ra liên tục. Ví dụ, dấu chân người 22.000 năm tuổi được tìm thấy ở New Mexico, Hoa Kỳ (11). Tuy nhiên, ở Bắc Mỹ, nền văn hóa Clovis xuất hiện khoảng 13.000 năm trước trước, theo sự đồng thuận hiện tại là biểu hiện văn hóa sớm nhất lan rộng ở phía nam các tảng băng hà (12, 13). Các di tích khảo cổ bắt đầu từ thời đại tương tự với nền văn hóa Clovis được biết đến ở Peru Nam Mỹ (14).

Bản đồ Peru có cùng độ tuổi hoặc lớn hơn một chút so với nền văn minh Clovis ở Bắc Mỹ và là khu định cư sớm nhất của người Peru được biết đến ở Nam Mỹ.

Tuy nhiên, đến năm 2024 khi tờ báo (4, 5) đã được công khai, không rõ Peru ở đâu Atlas đến từ đâu. Tuy nhiên, nó được cho là Đông Á thời kỳ đồ đá cũ nhưng  loại trừ Trung Quốc đại lục vì thiếu “biển ở phía Tây” như được chỉ ra trong Atlas Peru. Năm 2024 tài liệu (4, 5) đã để lại chủ đề quan trọng về vị trí địa lý này cho các nghiên cứu về sau.

Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu nguồn gốc của Atlas Peru.

Hình Một : Một minh họa của trước Dryas trẻ hơn Atlas 14.000 năm tuổi của Trời và Đất (4, 5) được tìm thấy trong bản vẽ của Peru Panel trong Đền mặt trời của Peru Nam Mỹ (1-3). Để thuận tiện cho trình bày, Atlas đã được chia thành hai phần theo chiều dọc: Atlas của Trời và Atlas của Trái Đất

Cách tiếp cận và phương pháp

Người ta cho rằng cần có thêm dữ liệu từ các di tích khảo cổ hoặc các phát hiện khác để khám phá ra Atlas đến từ đâu. May mắn thay, vị trí địa lý của nó đã được ẩn giấu trong Bản đồ.

Người ta cần phải có một cách tiếp cận mới để tìm vị trí địa lý của mình bằng cách tập trung đầu tiên vào thay vào đó là thiên văn học trong Atlas.

Ví dụ, khi Bắc Cực ngày nay, được đánh dấu bằng ngôi sao cực gần nhất của Polaris, xuất hiện 11 độ trên đường chân trời, người quan sát có thể kết luận vĩ độ của mình là 11 độ N. Theo đó tại 12.000 TCN khi Bắc Cực, được đánh dấu bằng sao Vega gần nhất, xuất hiện 11độ phía trên đường chân trời, người ta có thể xác định vĩ độ của người ngắm sao hoặc Atlas Maker là khoảng 11 độ. Không, cũng vậy. Khí tượng, đặc điểm địa lý và thực vật được ghi trong Atlas rất hữu ích trong xác minh vị trí của nó. Tôn giáo, hệ tư tưởng, triết học, vũ trụ học và xã hội học trong Atlas được xem xét với tuy nhiên, ít độ hơn.

Kết quả và thảo luận

Vì vậy, không giống như các nghiên cứu trước đây (1-5), Atlas được chia thành hai phần: Atlas trên cùng của Thiên đường là thiên văn học và Atlas Trái đất là địa lý, như thể hiện trong Hình Một.

Trong Hình Một, hình minh họa của nó dựa trên bài báo năm 2024 (4, 5).

Trong Atlas, phương Đông ở bên trái, phương Tây ở bên phải, phương Nam ở trên cùng và phương Bắc ở phía dưới.

Atlas của Thiên Đường

Atlas of Heaven, phần trên của Atlas Peru trong Hình Một, chứa một bầu trời nguyên thủy bản đồ năm 12.000 trước Công nguyên, hai cuốn lịch cùng tuổi, biểu tượng sáng tạo hình bầu dục của thiên đường, v.v.

Để hiểu được Atlas Peru, người ta cần phải xem xét lại những phát hiện trước đó, đặc biệt là các thiên thể xung quanh Hoàng đạo, như đã nêu trong bài báo năm 2024 (4, 5).

Hoàng đạo trong Atlas of Heaven

Hoàng đạo là nơi Mặt trời, Mặt trăng, Sao Kim – Ngôi sao bình minh và Sao Kim – Ngôi sao hoàng hôn (3-5) đã đi du lịch,

mặc dù không được dán nhãn rõ ràng, là biểu tượng thiên văn quan trọng nhất trong Atlas. Ngoại trừ ngôi sao cực Vega, tất cả các thiên thể khác và hai lịch liên quan trong Atlas đều là dựa trên hoặc tập trung xung quanh Hoàng đạo.

Trong Atlas, Antares đánh dấu điểm bắt đầu trên hoàng đạo (5). Nó đại diện cho phương Đông Hoàng đạo. Với màu vàng rực rỡ, Antares được biết đến với tên gọi Ngôi sao Lửa Lớn và Con mắt của Con Rồng ở Đông Á thời kỳ đồ đá mới. Sự hợp nhất của nó với Mặt Trăng tạo thành chòm sao 13 tháng Lịch trong Atlas.

Antares cũng đánh dấu sự khởi đầu của lịch (5). Antares là một ngôi sao đang lên vào lúc hoàng hôn được chỉ ra trong Atlas. Tháng bắt đầu của lịch là tháng 12 ngày hôm nay (1), hoặc Tháng của Đông chí được gọi là Tháng Mười Một Âm Lịch (15) ở Trung Quốc thời đồ đá mới.

Antares đã dịch chuyển khoảng 180 độ trên vòng tròn Tiến động kể từ khi Atlas được tạo ra (5). Sự thay đổi này cho thấy Atlas đã khoảng 14.000 năm tuổi khi Vega là Sao Bắc Đẩu.

Thay vì dán nhãn Hoàng đạo trong 360 độ ngày nay là một phát minh sau này ở thời kỳ đồ đá mới (15,16), người làm Atlas đã chia nó thành bốn phần với Bốn Điểm Chính được biểu thị bằng bốn thực thể trên trời được tạo thành từ một ngôi sao, các chòm sao và một phần Ngân Hà. Mỗi thực thể được tách ra đều nhau bởi khoảng 90 độ gần hoặc trên Hoàng đạo.

Bốn điểm chính này trong Atlas được xác định là Antares trong Ngân Hà, Ngũ Tinh Thập tự giá ở cung Sư Tử, chòm sao Mèo ở cung Orion và Kim Ngưu, và Thập tự giá bốn sao ở cung Phi Mã (5). Họ được gọi chung là “Bốn con vật linh thiêng trên Hoàng đạo” ở Đông Á của Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc: Rồng xanh phương Đông, Chim đỏ phương Nam, Hổ trắng phương Tây và Rắn/Rùa đen phương Bắc. Giống như Đông Á, Tứ quái Peru.

Các loài động vật linh thiêng được xác định là Động vật bóng tối trong Ngân Hà, Kền kền Andes, Puma và con rắn (3, 5). Ở Đông Á của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, v.v. Bốn Điểm Chính được nêu rõ ràng đại diện cho Đông, Nam, Tây và Bắc trên Hoàng đạo. Trong xã hội Peru và Đông Á, chúng cũng liên quan đến bốn mùa (3, 5).

Ví dụ, trong Atlas, phía bắc của Hoàng đạo được biểu thị bằng một Thập tự giá bốn sao Pegasus. Điểm chính này là Rắn phương bắc, còn được gọi là “chùm sao của Bốn “Những người giúp việc ở Bắc Cực” được ghi chép trong các văn bản cổ của Trung Quốc (5, 17). Bốn Điểm Chính trên Hoàng Đạo mọc từ phía Đông và lặn ở phía Tây hàng ngày khi Trái Đất xoay. Chúng tiến lên khoảng một độ mỗi ngày trên Mặt phẳng Hoàng đạo.

Tuy nhiên, Bốn Điểm Chính trên bầu trời lại đứng yên, cố định và không di chuyển.

Trong Atlas Peru, Bốn Điểm Chính trên Hoàng Đạo được căn chỉnh với Bốn

Các điểm chính trên bầu trời. Điều này là hiển nhiên (5) rằng Vega, Ngôi sao Bắc Đẩu và Thập tự giá bốn sao trong Pegasus được đặt cùng nhau đại diện cho phía bắc của bầu trời và Hoàng đạo. Tương tự như vậy, Antares đại diện cho

Phía đông của Hoàng đạo và bầu trời, và chòm sao mèo ở Orion và Kim Ngưu đại diện cho phía Tây của Hoàng đạo và bầu trời trong Atlas.

Vega và Four-Star Cross trong chòm sao Pegasus ở bầu trời phía Bắc

Bài báo năm 2024 (4, 5) đã xác định rằng Vega và Four-Star Cross trong Pegasus được biết đến trong các văn bản cổ của Trung Quốc là “Bốn phương thuốc giúp đến Bắc Cực” (17), nằm ở bầu trời phía bắc. Vì vậy, quyết định này cho phép người ta có được vĩ độ của bầu trời nơi Atlas Maker đồn trú.



Hình Hai: 12.000 TCN bầu trời đêm ở vĩ độ 10 ôi N trong khi hướng về phía Bắc. Vega, Ngôi sao Bắc Cực, xuất hiện 10 ôi phía trên đường chân trời. Bốn- Ngôi sao Thập tự trong Pegasus đã ở trong Bầu trời phía Bắc. Đỉnh của Đầu được đánh dấu là Đỉnh cao.

Việc xác định vĩ độ của Atlas là đơn giản và rõ ràng đối với những người người có một số hiểu biết về thiên văn học hiện đại ngay cả khi không có sự trợ giúp của phần mềm được sử dụng trong Hình Hai.

Một cách trực quan là quan sát bầu trời như người tạo ra Atlas đã làm cách đây 14.000 năm.

Đầu tiên, tìm một bầu trời quang đãng từ một đến hai giờ sau khi mặt trời lặn vào tháng 12 và hướng mặt về phía Bắc.

Đối với người Paris, người New York, người Thượng Hải, v.v., ở vĩ độ trên 30 Độ N, Thập tự giá bốn sao trong Pegasus xuất hiện trên cao. Vega treo lơ lửng giữa bầu trời tây bắc khoảng 50 độ từ Polaris của Polar Star ngày nay.

Tuy nhiên, như đã thấy, chòm sao bốn sao mở rộng đến bầu trời phía nam. Hơn nữa, Vega và Four-Star Cross cách nhau một khoảng cách rất xa, khoảng 70 độ trên bầu trời.

Người ta có thể ngay lập tức kết luận rằng, đối với cả Vega và Four-Star Cross trong Pegasus đều rơi trên bầu trời phía bắc, sao Vega chỉ cao hơn đường chân trời vài độ khi nó đóng vai trò là Sao Bắc Cực vào năm 12.000 trước Công nguyên.

Trong Hình Hai “Bầu trời phía bắc ở vĩ độ 10 độ N vào năm 12.000 trước Công nguyên khi Vega đóng vai trò là Sao Bắc Đẩu”, sao Chức Nữ và bốn ngôi sao chéo nhau trong sao Phi Mã nằm trong bầu trời phía bắc ở vĩ độ của 10 độ N, như được chỉ ra trong Atlas Peru.

Vĩ độ bầu trời trong vòng 3

N đến 14 độ N Tuy nhiên, ở vĩ độ trên 14 độ N, Algenib trong Four-Star Cross ở Pegasus xuất hiện đi ngang qua thiên đỉnh ở trên cao và chạm tới bầu trời phía nam.

Vì vậy, 14 độ N sẽ là vĩ độ cực bắc của Atlas.

Hơn nữa, Vega rất sáng và là ngôi sao duy nhất trên vòng tròn Tiến động có thể nhìn thấy gần chân trời. Khi người quan sát đứng trên một bệ cao như Kim tự tháp trên đồng bằng phẳng trên ngọn cây, Vega có thể nhìn thấy trên đường chân trời. Nhưng khoảng 3 độ ra khỏi vòng tròn của Tiến động. Để Vega có thể nhìn thấy quanh năm, vĩ độ không thể thấp hơn 3 độ N. Vì vậy, 3 độ N sẽ là vĩ độ tối thiểu trong Atlas.

Người ta có thể kết luận rằng bầu trời trong Atlas bị giới hạn ở vĩ độ từ 3 độ N đến 14 độ N.

Hình Ba:  Bản đồ Google của Đông Nam Á ngày nay trong Bán cầu Bắc: Khu vực này là được giới hạn bởi hai vĩ độ song song 3 và 14 độ Bắc. Ngôi sao đỏ ở 11 ôi 23′ 53” Bắc 106 ôi 10’16” E là “Bà Đen” hay “Bà Mẹ Đen” Núi ở đồng bằng sông Cửu Long

 Vega đề xuất Atlas từ 13.000 TCN đến 12.000 TCN

Núi Bà Đen “Mama Đen” 11độ 23′ 53” Bắc 106 độ 10’16” E đã được xác định tạm thời là “Mẹ Trái Đất” trong Atlas. Nó nằm ở vĩ độ 11 độ Bắc.

Người ta thường biết ở Trung Quốc và Việt Nam cổ đại rằng sao Bắc Cực được đặt tên theo nghĩa đen là “Đấng Tối Cao Số Một” và Chúa Tối Cao của họ, Chúa Trời của Thiên Đàng, ngự ở Bắc Cực. Người xưa sống quanh núi “Mama Đen” ở Việt Nam có lẽ tôn thờ vị thần tối cao của họ, Ngôi sao Bắc Cực. Vũ trụ của họ xoay quanh Bắc Cực. Ngôi sao Bắc Cực hẳn đã có thể nhìn thấy được đối với họ quanh năm khi Atlas đã được thực hiện.

Tại địa điểm Bà Đen “Mama Đen”, Vega chỉ có thể nhìn thấy trên đường chân trời quanh năm từ 13.000 TCN đến 12.000 TCN do sự tiến động.

Trong bài báo năm 2024 (4, 5), tuổi của Atlas được tinh chỉnh là 14.000 năm tuổi. Điều này sự xác định dựa trên Antares trên mặt phẳng Hoàng đạo, v.v.

Trong bài báo này, tuổi của Atlas được xác định là từ 14.000 đến 15.000 năm tuổi. xác định dựa trên Vega được quan sát tại ngọn núi được cho là “Mama Đen” Bà Đen. Hiện nay, hai sự kiện thiên văn độc lập dựa trên Antares và Vega đã được sử dụng để dự đoán thời đại của Atlas. Họ đưa ra cùng một kết luận.

Atlas được tạo ra hoặc sử dụng từ thời Dryas cổ nhất 13.000 trước Công nguyên đến thời Dryas muộn hơn 12.000 trước Công nguyên, ngay trước khi thời kỳ Younger Dryas bắt đầu khi mực nước biển dâng cao nhấn chìm Đất Sunda, v.v.

Hình Bốn : Một minh họa của Địa lý Đông Nam Á từ Dryas cổ nhất đến Dryas cổ hơn từ 13.000 TCN đến 12.000 TCN. Khu vực này là giới hạn bởi hai vĩ độ song song là 3 độ N và 14 độ N. Red Star là ba- đỉnh núi Bà Đen “Mama Đen”

(11 độ 23′ 53” Bắc 106 độ 10’16” E) trên Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam giáp ranh Campuchia.

Bản đồ Trái Đất

Atlas of Earth có lẽ là nơi mà xã hội của Atlas Maker tọa lạc. Nó chứa địa lý, khí tượng, sinh học và một xã hội phân tầng dựa trên gia đình của một người đàn ông và một người phụ nữ đang mang thai.

Dựa trên bầu trời trong Atlas, người ta sẽ cho rằng vị trí vật lý hoặc địa lý của nó bị giới hạn bởi hai đường vĩ độ song song 3 độ N và 14 độ N.

Atlas Trái Đất dường như là vùng Đông Nam Á nhiệt đới ở bán cầu bắc. Nó là cho rằng vị trí của nó không vượt qua đường Xích đạo đến bán cầu nam vì sao Vega là không thể nhìn thấy quanh năm ở đó. Cụ thể hơn bao gồm Campuchia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia ngày nay, Borneo, và vùng đất Sunda phía bắc chìm trên Vịnh Thái Lan, Biển Hoa Đông, v.v. Có khả năng nó nằm trên hai lưu vực sông cổ, sông Xiêm cũ và sông Mê Kông.

“Địa lý Đông Nam Á từ thời kỳ Dryas cổ nhất đến thời kỳ Dryas cổ hơn từ năm 13.000 trước Công nguyên đến năm 12.000 “BC” được minh họa trong Hình Bốn.




Giai Thoại Văn Chương : DỊCH THỦY TỐNG BIỆT (Đỗ Chiêu Đức)

  Giai Thoại Văn Chương  :                                       DỊCH THỦY TỐNG BIỆT   Năm Nghi Phụng thứ 3 đời Đường Cao Tông (678), Lạc Tâ...