Thứ Ba, 31 tháng 12, 2019

Thái Lan cảnh báo đập thủy điện Trung Quốc

Chính phủ Thái Lan cảnh báo 8 tỉnh dọc sông Mekong sẽ thiếu nước khi Trung Quốc thử đập thủy điện Cảnh Hồng từ ngày mai.
Theo Văn phòng Tài nguyên Nước Thái Lan (ONWR), mực nước sông Mekong qua các tỉnh Chiang Rai, Loei, Nakhon Phanom, Nong Khai, Mukdahan, Bung Kan, Amnat Charoen và Ubon Ratchathani sẽ giảm khi Trung Quốc thử đập thủy điện Cảnh Hồng, tỉnh Vân Nam, từ ngày 1/1 đến 4/1/2020.
Theo thông báo của Bộ Tài nguyên Nước Trung Quốc, khi tiến hành các hoạt động thử nghiệm, đập Cảnh Hồng sẽ giảm lượng xả từ 1.200-1.400 m3/s xuống 800-1.000 m3/s trong thời gian 1-3/1/2020. Lượng xả nước sẽ tiếp tục giảm xuống còn 504-800 m3/s vào ngày 4/1, sau đó sẽ trở lại mức bình thường.
Somkiat Prajamwong, tổng thư ký ONWR, cảnh báo mực nước sông Mekong có thể sẽ giảm khoảng 40-60 cm trong giai đoạn đầu đập Cảnh Hồng thử nghiệm. Khi lượng xả từ đập Cảnh Hồng giảm xuống 504-800 m3/s, mực nước có thể giảm thêm 30-50 cm nữa.
"Chính quyền các tỉnh bị ảnh hưởng, cùng với Bộ Nông nghiệp Thái Lan, đã được thông báo về hoạt động thử đập Cảnh Hồng để có biện pháp chuẩn bị tốt nhất", Somkiat cho hay.
Mực nước sông Mekong ở tỉnh Nakhon Phanom ở mức thấp bất thường hôm 4/12. Ảnh: AP.
Mực nước sông Mekong ở tỉnh Nakhon Phanom ở mức thấp bất thường hôm 4/12. Ảnh: AP.

Hoạt động thử đập Cảnh Hồng diễn ra trong thời điểm Thái Lan đang đối phó với một đợt hạn hán nghiêm trọng.
Viện Thông tin Thủy văn Thái Lan (HII) cho biết mực nước ở các hồ chứa lớn ở nước này thấp ở mức báo động do lượng mưa năm nay thấp hơn mức trung bình 18%. Lượng nước tại 9 hồ chứa nước lớn nhất Thái Lan chỉ còn chưa đến 30% tổng sức chứa.
HII cũng cảnh báo về tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng ở sông Chao Phraya trong quý I năm 2020 sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nước sạch cung cấp cho người dân. Nhà máy nước Samlae, bơm nước thô từ sông Chao Phraya ở huyện Muang, tỉnh Pathum Thani, đã ghi nhận độ mặn 1,55 gram/lít khi thủy triều lên, gấp 6 lần ngưỡng 0,25 gram/lít.

Quốc Hưng (Theo Bangkok Post

THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 37 / NHÓM VƯỜN THƠ MỚI

Chủ đề: Màu thời gian
Bài xướng:

        THỜI GIAN CHỚ VỘI QUA MAU
Đẹp nhất đời ta thuở học trò,
Lòng như giấy trắng chẳng phiền lo.
Những khi bắt dế hòa sương sớm,
Nhiều lúc thả diều đón gió to.
Chào hạ, phượng hồng luôn sáng rỡ
Đón xuân, áo mới quá thơm tho
Nay già tựa lá thu phai nhạt,
Ước máy thời gian chậm chậm bò…

Minh Tâm

Họa 1:         TÓC ƠI ĐỪNG BẠC
Vừa chơi vừa học khó ra trò
Thi rớt_ Thôi rồi... Ai chẳng lo?
Đâu ngại tiêu hao làn khói mỏng
Miễn sao có được cái bằng to
Học tài cố gắng chưa thành đạt
Thi mạng kiên trì đâu để tho*
Hoạn lộ chông chênh đầu trắng xóa
Giờ đây thiếu gậy phí công bò.
Nguyên Triêu Dương
*Tho:  nghĩa là thua ( tiếng Việt cổ)

Họa 2:             KỶ NIỆM THỜI THƠ
Vô tư cái thuở thich chơi trò
It học lười ăn chẳng biết lo
Rủ bạn nhảy dây phơi nắng nóng
Lội sình nghịch nước trốn mưa to
Theo cha thăm miệt vườn quê mẹ
Nhéo ruột vượt cầu đoạn Mỹ Tho
Chợt nhớ thời thơ bao kỷ niệm
Ngây ngô chân sáo nắm đuôi bò. . .

 Kim Trân

Họa 3:            CHẠNH LÒNG
Thế sự thăng trầm khéo vẽ trò
Chạnh lòng lữ thứ phải âu lo
Thương người nhẹ dạ thân lầm lỡ
Xót kẻ mềm lòng tiếng nhỏ to
Sống kiếp đong đưa, mùa gió chướng 
Về quê câu cắm, cá lò tho
Tỉnh ra mới biết đời hư ảo
Nhàn rỗi xem phim trận đấu bò.
Nguyễn Cang

Họa 4:        THỜI GIAN QUA MAU 

Ngây thơ thuở nhỏ thích bày trò 
Đùa giởn cả ngày chẳng thấy lo
Xuân đến tung tăn khoe áo mới 
Hè về rộn rả tiếng cười to
Làm thơ tạo ngữ đôi khi khó 
Ghép ý lựa lời hợp chữ tho
Tuổi trẻ qua nhanh chừ tiếc nuối 
Bây giờ chậm chạp rán mà bò .

Hương Lệ Oanh 
  



Bốn con hổ châu Á: Dân số già hóa có làm suy yếu nền kinh tế?


Nguồn: “Will age weaken the Asian tiger economies?”, The Economist, 05/12/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên (Nghiên Cứu Quốc Tế)

Vào lúc 4h30 sáng, hàng trăm người đã tràn ra đường bên ngoài ga Namguro ở Seoul. Họ không tới đây để đón tàu, vốn chỉ hoạt động sau một giờ nữa. Họ cũng không bị thu hút bởi các quán ăn sáng (bán xúc xích và bánh mỳ dẹt), các phòng hát trên lầu (cung cấp dịch vụ karaoke) hoặc các spa dưới tầng hầm (cung cấp những gì ai cũng biết). Thay vào đó, họ đến đây để cung cấp sức lao động của mình nhằm đổi lấy một ngày lương tại bất kỳ công trường xây dựng nào đang cần thêm lao động. Trong khi chờ được trả giá, họ hút thuốc, ngồi xổm và ho. Và họ không nói tiếng Hàn mà là tiếng Quan thoại.
Hàn Quốc từng là một nước xuất khẩu lao động ròng. Vào những năm 1970, các công nhân của các công ty nước này đã xây dựng những con đường ở Ả Rập Saudi, thường vào ban đêm dưới ánh đèn. Nhưng những người nhập cư, bao gồm cả những người Trung Quốc đang tập trung tại Namguro, hiện chiếm tỷ lệ ngày càng tăng trong lực lượng lao động.
Bất chấp những lo lắng về việc làm trong nền kinh tế của các con hổ, tỷ lệ thất nghiệp của họ vẫn thấp một cách đáng ghen tị: dưới 4% ở tất cả các nước này. Nỗi lo lắng lâu dài của họ sẽ là sự thiếu hụt không phải về việc làm mà là về những người trong độ tuổi lao động. Dân số trong độ tuổi lao động truyền thống (từ 15-64) đã giảm ở cả bốn nền kinh tế. Đến năm 2040, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động so với số người cao tuổi của họ sẽ còn thấp hơn cả Nhật Bản ngày nay. Trong khoảng thời gian 20 năm tới, những con hổ này sẽ già đi nhanh như tình trạng Nhật Bản đã trải qua trong hơn 30 năm.
Tỷ lệ sinh của các con hổ thuộc nhóm mười nước thấp nhất trên toàn thế giới: thấp đến mức mỗi năm số sinh mới dự kiến ​​chỉ bằng 55% so với lứa thế hệ cha mẹ của họ. Chính phủ các nước này đã cố gắng mà không đạt nhiều thành công để đảo ngược xu hướng này. Một số thậm chí đã thử cả biện pháp mai mối. Mạng lưới Phát triển Xã hội Singapore đã tổ chức các bữa ăn tối, xem phim và chơi cờ. Một cơ quan mai mối có chứng nhận sẽ giúp bạn tìm được đối tác lý tưởng của mình với sự trợ giúp của trò xếp hình Lego. Tại Đài Loan, chính phủ đã tổ chức các chuyến tham quan bằng xe đạp và hẹn hò nhanh, bên cạnh các sự kiện khác. Nhưng một quan chức cấp cao đã thẳng thừng đánh giá rằng: “Hoàn toàn vô tác dụng”.
Một lý do là văn hóa làm việc ở đây. “Nếu một quốc gia yêu cầu người dân của họ làm việc cả ngày đêm thì không có gì lạ khi tỷ lệ sinh quá thấp như vậy”, theo lời Joyce Yang, người đã bỏ một việc làm về quan hệ công chúng tại Đài Bắc sau quá nhiều lần kết thúc ngày làm việc lúc nửa đêm. Tại Hàn Quốc, chính phủ của Tổng thống Moon đã giảm thời gian làm việc tối đa xuống còn 52 giờ (mặc dù các trường hợp ngoại lệ vẫn tồn tại). Cô Yang đã chọn một giải pháp triệt để hơn: chuyển sang Úc, từ đó cô kêu gọi 30.000 người theo dõi mình trên Facebook từ bỏ thói quen tham công tiếc việc. Cô nói “Người Đài Loan không có thời gian để sống”.
Thời gian là một hạn chế; một hạn chế khác nữa là chi phí. Mặc dù toàn xã hội được hưởng lợi từ sức sống của mỗi thế hệ mới, nhưng chi phí nuôi dạy trẻ em đè nặng lên một nhóm duy nhất: phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Với cha mẹ già phải chăm lo cộng với rất ít sự giúp đỡ từ chồng (đàn ông chỉ làm 1/5 công việc gia đình ở Hàn Quốc) và sự trợ giúp không thỏa đáng từ nhà nước, nhiều phụ nữ đã chọn kết hôn muộn nếu kết hôn, và chỉ có một con, nếu muốn sinh nở.
Tình trạng khó khăn của họ càng trở nên tồi tệ hơn bởi một trong những điều các con hổ tự hào nhất: sự cam kết đối với giáo dục. Mặc dù các con hổ này đều cung cấp giáo dục công chất lượng tử tế, nhiều phụ huynh cảm thấy phải chi tiền cho những trường tư đắt tiền và việc học thêm. Một số nỗ lực bổ sung này có thể giúp nâng cao kiến ​​thức và năng suất trong tương lai cho trẻ em. Nhưng phần lớn trong số đó chỉ là nhằm tạo dựng hồ sơ, một nỗ lực để cải thiện vị trí của đứa trẻ trong dòng người xếp hàng xin vào các trường đại học tốt nhất, và để giành được những công việc tốt nhất sau khi ra trường. Giáo dục đã trở thành một cuộc chạy đua vũ trang, trong đó việc một phụ huynh chi thêm tiền và thời gian buộc những người khác cũng phải chạy theo.
Tại Hàn Quốc, ông Moon đã hứa sẽ thực hiện nhiều hành vi giảm tải giáo dục. Ông muốn hợp nhất các trường đại học vào một mạng lưới duy nhất, san phẳng hệ thống phân cấp các trường và thậm chí không khuyến khích các nhà tuyển dụng thuê nhân viên trên cơ sở hồ sơ học tập. Một số những đề xuất này dường như không thể thực hiện được. Các nhà phê bình gọi đó là “cuộc chiến đối với chế độ nhân tài”. Nhưng có một sự phân biệt giữa tài năng, thứ cần được tưởng thưởng, với những nỗ lực lãng phí để chứng minh tài năng, thứ gây tổn hại. Các “mẹ hổ” có nguy cơ làm tổn thương chính các con hổ của mình.
Đối mặt với gánh nặng này, một số phụ huynh đã gian lận bằng cấp cho con cái. Một bài báo khoa học năm 2009 về yếu tố tiền thân di truyền của bệnh tật được cho là do con gái của Cho Kuk, Bộ trưởng Tư pháp của ông Moon, làm đồng tác giả, mặc dù lúc đó cô ấy chỉ là một học sinh. Ông Cho đã buộc phải từ chức trong tai tiếng.
Giải pháp
Để cải thiện cấu trúc độ tuổi bất lợi, các con hổ sẽ phải kết hợp tuần làm việc ngắn hơn với cuộc sống làm việc dài hơn. Họ sẽ cần nhiều người như Neo Kwee Leng hơn. Khi gần 60 tuổi, ông từ bỏ công việc kinh doanh tiểu thương của mình để dành cả ngày hoạt động tại trung tâm “Loving Heart”, một trung tâm dành cho người cao tuổi ở Singapore. Đó không phải là nghỉ hưu: ông tham gia với tư cách là nhà quản lý. Đó hóa ra cũng không phải là một công việc nhẹ nhàng hơn. Khoảng 100 người ghé thăm hàng ngày, mỗi người có một nhu cầu khác nhau. Một số người đến kiểm tra y tế, một số vào chơi đàn ukulele, còn những người khác vào chỉ để trò chuyện.
Vì vậy, ông Neo đã nâng cấp các kỹ năng quản lý, học Excel và phân tích dữ liệu. “Phần khó khăn nhất là thị lực của tôi”, ông nói. Ông cũng đã điều hành các hội thảo về sử dụng điện thoại thông minh. Quá trình đào tạo lại – của ông và những người khác – nằm trong chương  trình SkillsFuture, một chương trình của chính phủ nhằm thúc đẩy văn hóa học tập trọn đời.
Tại các nền kinh tế con hổ, “trọn đời” có thể thực sự dài. Cũng như việc các nước này có tỷ lệ sinh thấp nhất, họ cũng là những nước có tuổi thọ cao nhất. Ngay cả ở tuổi 60, người dân của họ vẫn có thể sống thêm 25 năm nữa hoặc hơn, đủ thời gian để thành thạo cả Excel và ukulele.
Một cách khác để những con hổ đối phó với tình trạng già hóa dân số là cho phép nhập cư nhiều hơn. Người nước ngoài chiếm 6% lực lượng lao động tại Đài Loan và khoảng 3,3% tại Hàn Quốc. Đó là mức thấp theo tiêu chuẩn phương Tây, nhưng cao hơn Nhật Bản, nơi người nước ngoài chỉ chiếm 2%. Ở Hồng Kông và Singapore, sự phụ thuộc vào người nhập cư còn lớn hơn nhiều. Phần lớn dân số Hồng Kông (39%) được sinh ra ở nơi khác, bao gồm hơn 2,2 triệu người từ các vùng khác của Trung Quốc. Người sinh ra ở nước ngoài vẫn chiếm các vị trí cao trong các tòa án, cơ quan quản lý và thậm chí cả lực lượng cảnh sát. Thành phố cũng phụ thuộc vào hơn 380.000 người giúp việc và bảo mẫu (hầu hết đến từ Philippines và Indonesia), những người chiếm hơn 8% lực lượng lao động.
Singapore có 1,4 triệu lao động nước ngoài, tức hơn một phần ba lực lượng lao động. Chính phủ tin rằng người nhập cư là cần thiết để làm những công việc có tay nghề thấp mà người Singapore sẽ không muốn làm. Một sách trắng năm 2013 dự báo dân số sẽ tăng lên mức 6,9 triệu người vào năm 2030, từ mức 5,7 triệu hiện nay. Sách trắng đã vô tình tiết lộ giới hạn độ mở của Singapore. Dự báo này làm dấy lên lo ngại rằng những người nhập cư sẽ làm quá tải cơ sở hạ tầng và dịch vụ công của thành phố. Trong một trong những cảnh tượng hiếm hoi nhất ở Singapore, một vài ngàn người đã biểu tình trong một công viên, một số giơ cao các tấm biển ghi “Singapore dành cho người Singapore”.
Nhập cư không phải là cách duy nhất để tận dụng lợi thế lực lượng lao động dồi dào của những nước khác. Bên cạnh nhập khẩu lao động, các con hổ cũng có thể xuất khẩu vốn. Bằng cách cho vay và đầu tư ra nước ngoài, họ cũng tận dụng được lực lượng lao động nước ngoài mà không gặp phải tất cả những khó khăn trong việc đưa những công nhân đó sang nước mình. Tại Hồng Kông, thu nhập ròng hàng năm từ các tài sản nước ngoài này đã lên tới gần mức 2.500 USD mỗi người.
Các con hổ đã tích lũy các khoản đầu tư ở nước ngoài bằng cách liên tục bán nhiều thứ cho phần còn lại của thế giới hơn so với mức họ mua. Thặng dư tài khoản vãng lai của Singapore năm ngoái là một con số khổng lồ, lên tới 18% GDP. Sự mất cân bằng thương mại này chưa gây ra nhiều chú ý hay chỉ  trích từ Mỹ. Nhưng điều đó có thể thay đổi. Suy cho cùng, bốn nền kinh tế này đều xứng đáng được thế giới chú ý kỹ càng.■
(Còn tiếp 1 phần)

Xem Thêm :Các Bài Trên NCQT:
http://nghiencuuquocte.org/2019/12/09/bon-con-ho-chau-a-thanh-cong-da-qua-thach-thuc-dang-toi/ 

BÌNH HAY LOẠN- Trương Đình Phượng

Truyện Trương Đình Phượng
(Câu chuyện về con rái cá ở sông Hồng)
Nguyễn Hữu ngồi bên sông Nhuệ câu cá. Sáng đến chiều không câu được con nào. Nhưng miệng gã cứ nghêu ngao hát, chốc chốc lại giơ bầu rượu tu một hớp, cười ha hả coi bộ sảng khoái lắm.
Có mụ đàn bà mỗi ngày hai lần ra sông giặt áo, thấy Hữu, tò mò hỏi:
– Này ông đang câu gì đấy?
Hữu cười ha hả:
– Câu cá chứ còn câu gì nữa.
Mụ đàn bà nói:
– Sao tôi thấy ông chả giống người câu cá tý nào cả. Người ta không câu được cá thì mặt nhăn mày nhó đằng này ông lại cứ cười hát tỉnh bơ.
Hữu đáp:
– À có gì lạ đâu người ta câu cá sông còn tôi câu cá tâm. Câu tâm thì không thể nóng vội, có khi câu cả đời cũng chưa được cơ mà.
Mụ đàn bà cho là Hữu bị bệnh thần kinh nên không thèm nói nữa.
Mùa mưa đến bến sông nước dâng cuồn cuộn, Hữu vẫn ra sông câu. Hôm ấy, thái úy Trần Thủ Độ ngang qua bến sông, vì mưa gió dữ quá đành bảo lính cho thuyền ghé vào bờ. Thấy có kẻ bất chấp mưa gió đội nón tơi ngồi buông cần, Độ cho là chuyện quái liền tiến lại hỏi:
– Ngươi không thấy trời đang cơn cuồng nộ sao mà còn ngồi câu cá?
Hữu cười:
– Trời dông tố có nhằm nhò gì so với xã hội đang đảo điên, thưa ngài.
Độ cau mày nghiêm giọng hỏi:
– Ý nhà ngươi là sao hả? Ngươi biết ta là ai không?
Hữu khẳng khái đáp:
– Nhìn cờ hiệu trên thuyền tôi đã biết ngài là ai rồi. Lại tu hớp rượu rồi tiếp. Chẳng lẽ mắt ngài sinh ra chỉ để nhìn thấy thái bình thịnh vượng thôi sao. Ngài có biết gần đây đời sống dân chúng thế nào chăng?
Độ vuốt râu:
– Vua hiền tôi trung, nhân dân bốn cõi vui vẻ hòa thuận sống trong ơn mưa móc.
Hữu cười như điên dại, nước mắt ràn rụa:
– Than ôi, kẻ ngồi trên kiệu nhung võng tía đi qua cầu không thể thấy sông sâu đang đục ngầu bùn, kẻ ở lầu cao gác tía hai con mắt chẳng bao giờ nhìn thấy nỗi khổ của những kẻ nơi chốn bần hàn lều tranh mái rạ. Đúng lắm thay, đắng chát lắm thay. Ngài có biết gần đây khắp các địa phương bọn tham quan ô lại đang ngày ngày giao thương với giặc phương Bắc hay chăng. Chúng bán đất cho giặc lập đồn ấp sản xuất các loại vũ khí, mua độc dược về điều chế thành thực phẩm bán rẻ cho dân chúng. Bao nhiêu người nghèo khổ chết mòn chết dần vì bệnh tật, gởi đơn cầu cứu nhưng nào có thấu đến tai các bậc ở kinh thành. Cứ tình hình này rồi đây Hoàng Thượng chỉ còn cai quản một đất nước đầy xương trắng mà thôi.
Độ nghe vậy giật nẩy mình, hốt hoảng hỏi
– Tiên sinh đang nói giỡn ta chăng?
Hữu nói:
– Ta nói giỡn ngài để làm gì, chả nhẽ ta không biết tiếc cái mạng hèn của mình hay sao? Giọng Hữu buồn thảm. Ngày ngày ta ra đây ngồi nào có phải câu cá đâu, mà đang đau đớn suy nghĩ về vận mệnh non sông. Ta muốn dâng tấu sớ lên Hoàng Thượng, tẩy rửa nền chính trị đất nước này. Cần phải trừ khử bọn sâu mọt hại dân hại nước thì mới có cơ hội phát triển lâu bền được.
Độ nói:
– Vậy tại sao ngươi không dâng tâu sớ sớm cho Hoàng Thượng?
Hữu nói:
– Nào có dễ đâu thưa ngài, đơn từ hiện nay trăm khâu ngàn mối, muốn dâng tấu sớ lên triều đình phải trải qua bao nhiêu cửa, có khi chưa đến được tay người có thẩm quyền thì cái mạng hèn của tôi và dân chúng đã hóa thành tro bụi.
Độ đứng im lặng nhìn dòng nước sông điên cuồng gào rú, mây trời âm u như ngày tận thế. Mưa lại rơi, gió rít từng hồi, lá cờ trên thuyền vật vã như chực rách, chiếc nón trên đầu Hữu đã bị gió thổi lật, hiện ra một khuôn mặt đầy nét suy tư.
Lời Hữu hòa theo gió, như tiếng ai oán của trăm vạn bách tính trong thiên hạ:
-Làm quan cốt lấy dân làm gốc, dân ấm no thì đất nước mới cường thịnh. Hiện giờ chốn triều ca thì vua tôi vui say hưởng thú, lúc nào cũng nghĩ rằng non sông đang yên bình an lạc mà thực ra thì có khác gì biển ngầm ẩn sóng, bão dựng ngoài khơi. Các chốn địa phương thì quan viên bao che cho nhau hà hiếp dân chúng, thẳng tay vắt mỡ chắt dầu. Tháng tháng tấu sớ về kinh toàn báo cáo ấp này được mùa, ấp kia buôn may bán đắt, chỗ này dân chúng được đến trường học hành tử tế, chốn nọ bệnh xá khang trang con bệnh được lương y chăm bẳm như người nhà… Than ôi, ngài Thái Uý hãy thử một phen làm kẻ thường dân tìm đến bệnh xá mà xem, bọn lang trung chúng đối xử với con bệnh còn tồi tệ hơn phường mổ chó đối xử với chó. Hễ có tiền đút thì chúng bố thí vài thang thuốc, băng bó vài miếng vải thơm, ngược lại đến thuốc mốc vải ố chúng còn cắt xén.
Độ càng nghe máu nóng càng xông lên đỉnh đầu, giữa cơn mưa gió mà người như có lửa nung, gầm lên một tiếng, thét lớn:
-Lẽ nào những điều nhà người nói đều là sự thật đang diễn ra trên non sông này ư?
Hữu nói:
-Nếu ta có, dù chỉ nửa câu bịa đặt, thì xin trời giáng sấm sét mà tiêu hủy mạng này đi.
Độ bất ngờ quỳ xuống trước mặt Hữu vái hai vái mà rằng:
– Cảm tạ ngươi đã mở mắt cho ta.
Hữu vẫn ngồi im, bình thản nói:
– Tôi hi vọng với tài trí và lòng yêu dân như con, ngài sẽ đem đến cho đất nước thanh bình tự do thực sự chứ không phải là hình sương bóng khói.
Độ nói:
– Lời tiên sinh cũng chính là tâm tư của Độ này.
Độ đỡ Hữu đứng dậy, hai người ôm chặt nhau cười sảng khoái giữa cơn mưa tầm tã.
Sau đó Hữu được Độ mời về kinh, Hữu trở thành quan khâm sai chuyên tiêu trừ bọn tham quan ô lại. Từ bấy giờ, từ kinh thành đến thôn quê những tên hôn quan nghe tên Hữu là vỡ mật. Nhờ thế nạn tham nhũng được khống chế, tiếng than oán trong dân vắng dần. Hữu lại cho người đến các bệnh xá tiêu trừ hết thuốc mốc vải ố, cấp phát thêm giường cho bệnh nhân, lọc trừ bọn lang trung mặt người lốt thú.
Năm 1264 Độ chết, cùng năm đó Hữu bị chính bọn tham quan thuê người ám sát ngay giữa kinh thành.
Giết Hữu xong, bọn sát thủ âm thầm đưa xác Hữu ra sông Hồng thủ tiêu. Nghe nói lúc cái xác vừa bị quăng xuống mặt sông, đột nhiên sóng nổi dữ dội, nước sôi lên sùng sục như đun. Nước lặng cái xác biến mất. Bọn sát thủ nhìn thấy một con rái cá trồi lên, quẫy một cái thật mạnh rồi nương theo dòng nước mà trôi đi mất.
Ít lâu sau những kẻ tham gia ám sát Hữu bỗng phát điên, kẻ thì treo cổ tự sát, kẻ thì dùng gươm đâm vào bối tâm mà chết…
Bọn quan viên trong triều thầm rỉ tai nhau, chắc là oan hồn Hữu không siêu thoát nên về báo oán, tuy chúng có phần sợ hãi nhưng vẫn không buông bỏ thói tàn dân hại nước.
Năm 1268 một buổi sáng mùa thu, khí trời se sắt,  trên đường kinh thành Thăng Long bỗng xuất hiện một tay thầy tướng, tay cầm phướng vừa đi vừa rao: Gieo quẻ xem vận nước/ bốc mu đoán việc nhà.
Bốn bên lặng như mồ, chẳng ai thèm quan tâm.
Lại rao: Xem quẻ kiết hung/ Non sông còn mất.
Một vài nhà hé cửa nhìn ra, một vài kẻ đi đường tò mò ngoái lại, rồi tất thảy lại đâu vào đó. Tay thầy tướng vẫn không nản.
Lại rao: Này những kẻ tàn dân hại nước/ Đến đây ta gieo chước thần tiên/ Túi tham cởi lỏng hơi tiền/ Buông đao đồ tể tới miền thảnh thơi.
Đến đây thì một số tiếng xì xầm bàn tán nổi lên.
Kẻ nói:
-Lão này điên.
Kẻ nói:
-Tên này chán sống, dám vuốt dái các quan.
Lại có kẻ cười nói:
-Rõ anh chàng dớ dẩn học đòi thánh nhân đây mà.
Gã thầy số đã tiến lại sát cổng cấm Thành, càng rao lớn hơn. Hoàng thượng đà say giấc/ Dân khốn khổ mặc dân/ Triều ca như gỗ mục/ Quan như sâu đục thân.
Mỗi tiếng rao của tay thầy số tuy ngôn từ thô kệch nhưng ý nghĩa sâu xa, câu nào câu nấy như cố tình ám chỉ rằng triều đình đang hồi mối mọt, non nước đang độ điêu tàn.
Mấy tay lính canh cổng thành nghe tay thầy số rao liền chạy vào bẩm báo lên gã Vệ Uý. Tay này chạy ngay ra, nghe xong mặt tím tái hốt hoảng chạy vào bẩm báo lên nhà vua, lúc đó Trần Thánh Tông đang cùng phi tần thưởng hoa nơi ngự uyển, nhác trông lên thấy tay Vệ Uý mồ hôi nhễ nhại, mồm thở dốc nói không ra hơi, liền nghiêm giọng:
-Có chuyện gì, mau bẩm ta rõ.
Tay Vệ Uý quỳ xuống tâu lên sự việc. Trần Thánh Tông mặt rồng hừng hực lửa, thét lớn:
-Nhà ngươi mau ra lôi gã thầy tướng vào đây để ta xem gan của nó lớn cỡ nào mà dám rêu rao những lời xằng bậy phạm thượng như thế.
Tay Vệ Uý chẳng chờ nhà vua nói dứt đã vùng dậy, vâng dạ rồi lao luôn ra ngoài. Thật may là tay thầy tướng chưa đi. Tay Vệ Uý lớn giọng ra lệnh cho bọn lính canh cổng thành:
-Bây đâu, mau tóm tên to gan lớn mật kia điệu vào cho Hoàng Thượng xử tội.
Bon lính dạ ran, lao ngay lại, lôi gã thầy tướng số như lôi con lợn đã bị trói chặt bốn chân.
Vào đến nơi, Thánh Tông ra lệnh cho phi tần lui ra, chỉ để lại bọn lính, thị nữ và tên Vệ Uý.
Tay thầy tướng nhìn thấy nhà vua nhưng vẫn cứ đứng chứ không chịu quỳ.
Nhà vua nhìn qua hình dáng, thấy hắn tai thỏ mặt gấu, thầm nghĩ “hẳn là kẻ kiệt liệt chứ chẳng thường đâu”. Nhà vua nhấp ngụm mỹ trà rồi hỏi:
-Ngươi là thầy tướng số?
Hẳn dửng dưng đáp:
-Cái đó ngài nhìn là biết, đâu cần hỏi.
Nhà vua nén giận hỏi tiếp:
-Phải chăng ngươi tự tin cho rằng mình có tài xem quẻ kiết hung cho non sông này?
Hắn vẫn dửng dưng đáp:
-Không phải là tự tin cho rằng mà là chắc chắn, thưa ngài.
Nhà vua bắt đầu cảm thấy tay thầy tướng số này thú vị, không còn tỏ ra vị thứ vua dân mà lấy đạo chủ khách đối đãi, lệnh cho bọn cung nữ dâng trà, dịu giọng nói:
-Nếu quả tiên sinh có kế sách gì giúp ta cải tạo đất nước thì xin hãy trình bày cho ta được mở mang tầm mắt. Xin mời tiên sinh ngồi.
Tay thầy số chẳng khách sáo ngồi luôn xuống, mồm miệng thao thao:
-Đạo làm vua có ba việc nên làm và ba việc không nên làm, không rõ ngài đã biết hay chưa?
Nhà vua nói:
-Xin rửa tai lắng nghe.
Tay thầy số nói:
-Ba việc nên làm là: tiêu trừ tham nhũng từ trong triều ca đến tận chốn nhân gian, trừng trị tham quan bất kể hoàng thân quốc thích, trọng dụng nhân tài không kể hèn sang.
Thương dân như con, dân đứt tay thì coi như mình rồng chảy máu, dân đói khát thì coi như dạ rồng khô hạn, dân bệnh tật thì coi như long thể tổn thương.
Xem vận nước là trọng, chẳng vì sợ hãi mà xem giặc ngoại bang là bằng hữu chi giao, xem mỗi ý kiến của dân chúng cũng là mưu chước của mưu sĩ.
Ba việc không nên làm là: bao che cho hoàng thân quốc thích hà hiếp bá tánh, nghe lời xiểm nịnh bùi tai của lũ cẩu quan mà ruồng rẫy giết hại trung thần.
Xem dân là công cụ để thể hiện quyền uy, xem dân là phường hèn hạ còn mình là đấng chí tôn.
Che đẩy sai lầm của bản thân, xem lời cuả bậc trung lương là gió thoảng qua tai.
Chỉ cần ngài thực hiện được ba việc nên và không nên ấy thì ngôi vị của ngài mới bền lâu, non sông này mới phát triển được. Nhược bằng ngài cứ u u mê mê để cho bọn gian thần lộng hành, lấy miệng cú mồm hâu che mắt thì sớm muộn gì non sông này cũng thành chốn hoang tàn mà thôi.
Nhà vua nghe tay thầy số nói, mặt rồng liên tục biến đổi từ tức giận sang bình hòa, lại từ bình hòa sang tức tối. Khi tay thầy số dứt lời, nhà vua vỗ bàn thét:
-Gớm ghê thay miệng lưỡi phường giang hồ, hẳn rằng trong mắt ngươi trẫm chẳng bằng một đứa trẻ hay sao?
Tay thầy số bình tĩnh đáp:
-Thưa ngài, ngay khi quyết định làm việc này ta đã xem cái mạng hèn của ta nhẹ tựa lông hồng. Làm người ai chẳng một lần phải chết, miễn sao sống không thẹn với lòng. Thân nam tử đứng trong trời đất há lại vì kiếp sống thừa mà bịt mắt đâm tai mặc non sông bị hà hiếp hay sao?
Tất cả những gì ta nói chính là lời gan ruột, ngài nghe nghịch tai mà trừng trị ta, ta cũng chẳng oán thán gì. Ngài ở ngôi chí tôn, ta là phường giang hồ, lời dù hay cũng chẳng thấu tai rồng vậy.
Nói rồi tự cầm ấm rót trà bưng chén lên uống, khà một tiếng, khen:
-Đúng là mỹ trà. Trước khi chết được cùng nhà vua ngồi thưởng trà xem ra cái mạng ta cũng đáng giá lắm thay.
Rồi cười ha hả, nước mắt tuôn đầy má.
Ngẩng đầu nhìn những đám mây trôi vô hướng trên khung trời, hắn cất giọng u uẩn ca rằng:
-Non non nước nước nhà nhà
Đã đau đến tận tiếng gà cũng đau
Trời cao sông rộng ngàn lau
Một mai xương trắng nhuộm màu tà huy
Muôn dân sống phận gối quỳ
Biết tìm đâu kẻ dám vì nước non.
Ca dứt, nhìn nhà vua, hỏi:
-Bài ca ta vừa hát ngài nghe có cảm thấy buồn chăng?
Nhà vua đáp:
-Bài ca thật não nề.
Thời gian âm thầm lướt qua. Nhà vua ngồi trầm tư suy ngẫm. Tay thầy tướng nét mặt đầy dửng dưng, vẫn một tay châm trà một tay bưng trà lên uống chẳng khác gì một kẻ tao nhân đang hưởng thú thanh nhàn.
Trời vào trưa, nắng chan hòa cây lá, vườn ngự uyển muôn hoa tỏa hương hòa theo gió tạo nên khung cảnh vô cùng thanh nhã. Nhà vua im lặng, bọn thị vệ cung nữ cũng đứng đờ như tượng, chẳng kẻ nào dám nhúc nhích. Tay thầy tướng đưa tay nhón một miếng Như Ý Bính cho vào miệng nhai, còn khen lấy khen để:
-Quả nhiên là loại bánh danh bất hư truyền chỉ vua chúa mới được dùng, còn dân đen như ta sống một đời cũng chẳng có cơ hội nhìn thấy, nói gì đến chuyện thưởng thức. Hôm nay ta được ăn, âu cũng là diễm phúc lắm thay.
Như Ý Bính này được làm từ bột bình tinh, sảy sương qua nhiều đêm được ướp hoa bưởi, ăn vào vừa có cảm giác ngọt dịu vừa thanh mát, chà chà để ta làm thêm miếng nữa, có chết cũng là con ma no vậy.
Vừa nói vừa đưa tay lấy thêm miếng bánh nữa. Trước nay chưa từng có kẻ nào kể cả quan nhất phẩm đại thần dám ngồi trước mặt vua mà bình phẩm về đồ ăn thức uống của  vua chứ chưa nói gì đến việc khen chê, thế mà tay tướng số lại dám nói những lời rất chi phạm thượng ấy, khiến bọn thị vệ và cung nữ đứa nào đứa nấy bức sốt cả lên, phần lo nhà vua nổi giận ra lệnh giết tên thầy tướng, phần lo thân mình cũng bị vạ lây, muốn lên tiếng bảo tay thầy tướng im miệng nhưng lại chẳng dám mở mồm.
Tay thầy số vẫn thao thao:
-Hoàng thượng muốn ngồi ngôi cao yên yên ổn ổn mà thưởng thức muôn trân vạn thức là nhờ vào đời sống nhân dân hòa bình thịnh vượng, non sông không lởn vởn bóng ngoại bang. Có lẽ đâu kẻ làm vua mà một việc như thế lại không thấu rõ. Than ôi, xưa nay chỉ thấy dân chết vì vua chứ nào đã thấy quan vì vua mà chết, vậy mà vua chỉ xem quan là tay là áo mà xem dân là cứt là đái, bi ai lắm thay, chua chát lắm thay.
Sau một hồi lâu suy nghĩ, nhà vua như kẻ từ cơn mơ sực tỉnh, đổi giọng hòa nhã mà rằng:
-Nãy giờ lời của tiên sinh quả đã mở mắt cho ta rất nhiều.
Tay thầy tướng số nghe nhà vua nói vậy lòng mừng khôn xiết, bụng bảo dạ: Thật may nhà vua không phải loại hôn quân, ta đi chuyến này thật không uổng công vậy.
Liền quỳ xuống dập đầu mà rằng:
-Cảm tạ ngài đã thấu tỏ những lời gan ruột của ta. Bây giờ ngài có thể ra lệnh bằm ta thành ngàn vạn mảnh ta cũng cam tâm.
Nhà vua cả cười:
-Ngươi an tâm, ta sẽ không làm gì tổn hại đến ngươi. Nếu như ngươi đã là kẻ vì dân vì nước hay là hãy ở lại trong cung ngày ngày hiến mưu bày kế, giúp ta gây dựng non sông thành một đất nước cường thịnh có được chăng?
Tay thầy số gạt đi mà rằng:
-Xin ngài thứ cho, ta khó mà tuân mệnh. Ta chỉ thích làm kẻ lưu lãng sông hồ, không ưa gì cân đai áo mão. Nếu ngài đã không xử trí cái mạng hèn này thì xin được bái biệt.
Nhà vua níu giữ hai ba lượt nữa, tay thầy số vẫn khăng khăng từ chối. Vua bèn lệnh cho thái giám đem ban cho tay thầy số hai trăm lượng bạc trắng. Tay thầy số nhất quyết không nhận, vua chẳng còn cách nào khác đành truyền bọn lính đưa tay thầy số rời cung.
Từ sau cuộc gặp gỡ ấy, Trần Thánh Tông trở thành vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Đối nội, vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu linh khắp nơi, giúp trăm họ an cư lạc nghiệp…
Năm 1270, một hôm nhà vua đang cùng các cận thần ngao du sông Hồng bỗng dưng sông nổi sóng, rồi một con rái cá khổng lồ trồi lên, bơi sát thuyền rồng. Bọn lính vội vàng dùng gươm giáo thi nhau chém xuống nước, cố giết con rái cá. Trong chốc lát, máu nhuộm đỏ nước sông, con rái cá đã bị chém nát như tương.
Người ta kể rằng từ đó, vào những ngày mưa gió, bên bờ sông Hồng thường xuất hiện hình ảnh một người đang ngồi buông cần câu cá. Mỗi khi ánh chớp lóe lên, người đó lại biến hình thành một con rái cá.
Năm 1278, Trần Thánh Tông băng hà, từ đó hình ảnh người câu cá bên sông Hồng vào những ngày mưa gió cũng đột nhiên biến mất…
(Trích Đại Nam thần quái truyện)

VẤN AN THI HỬU TRỊNH CƠ (Thơ Cao Mỵ Nhân và Bài Họa Của Các Thi Hửu


VẤN AN THI HỮU TRỊNH CƠ
Được bạn thơ bày tỏ ý định tạm hưu thơ
kể từ đầu xuân 2020 này
Xin có lời thăm hỏi thực hư,
mong đó là chuyện vãn .
CMN

Chào ông, xuân mới hai mươi này
Đâu có chi buồn phải xếp tay
Nguyệt Lãm vẫn xanh mầu bích tuyết
Lãng Phong còn lộng sắc vàng mây
Trăm năm tóc rụng đôi phương nhớ
Trọn kiếp tơ vương một thủa say
Là suốt đời vui câu xướng hoạ
Tri âm niên kỷ đẹp tình đầy ...
Hawthorne 26 - 12 - 2019
CAO MỴ NHÂN
 

Bài Họa: MÃI LO CHUYỆN KHÁC
Mừng Xuân sang, sẵn tới mùa này
Buồn có đâu, chỉ muốn rảnh tay
Nguyệt Lãm...Đăng Mành như lướt gió
Lãng Phong...Quỳnh Đức tựa tung mây
Nương theo trước mặt chuyên nghề mới
Bỏ lại sau lưng giấc mộng say
Đã biết thời qua vui bạn hữu
Thi ca xướng họa đẹp tràn đầy.
Paris, 26/12/2019
TRỊNH CƠ

Họa :VUI TRỌN CHỐN NÀY
Có mặt thì vui trọn chốn này
Ai đành toan tính chuyện chia tay
Thâm cung lá đã xuôi dòng nước
Mạng Nét thơ nào ngược áng mây?
Hạnh ngộ,vì duyên xưa bện thắm
Kỳ phùng,bởi nghĩa cũ gìn say
Bốn mùa luân chuyển bừng hương ngát
Những chén hân hoan lại rót đầy.
Lý Đức Quỳnh
29/12/2019


Họa :SAO LẠI BỎ THƠ ?
Đã có cơ duyên đến chốn này
Bao ngày xướng họa vẫn chung tay
Thả hồn phiêu lãng theo trăng gió
Góp tứ dạt dào với nước mây
Cất nỗi lụy phiền, xây ý mộng
Quên niềm sầu muộn, dệt câu say
Thì sao lại định rời thơ phú 
Chẳng sợ cô đơn lại ngập đầy ?
Sông Thu

   Họa : ẨN NGÔN
Dù mới hay tin,biết sự này,
Vui nào chả có lúc chia tay.
Như vừa bện chữ, cùng khơi nắng,
Chi vội rời trang, sớm rẽ mây?
Nhớ đặng ân thâm ,dường vẫn đậm,
Quên sao tri ngộ, đã từng say!
Thôi thì nán lại mươi Xuân nữa,...
Cho thỏa tình nhau chứa chất đầy!
                             30-12-2019
                       Nguyễn Huy Khôi
  
Xin họa vui gữi bạn Trinh Cơ,
Họa :CHỚ CHIA TAY
Mấy thuở gặp nhau cõi thế này
Dù cho bận bịu, chớ chia tay
Nhớ hoài bạn hữu cùng non nước
Thương mãi vần thơ với gió mây
Tuổi hạc còn đây đôi mến mộ
Bóng chiều vẫn đó chút vui say
Tri âm tri kỷ, tình hồ hải
Khoảnh khắc niềm vui lại ngập đầy
Thanh Trương


(Ảnh trên: Trịnh Cơ từ trang Lãng Phong)

HOAANH TƯ LO VIỆC RIÊNG
Chuột đến đem vui năm Tý này
Bao điều bận rộn chuyện liền tay
Trầu cau bánh rượu thêm hoa trái
Thi sĩ TC lướt áng mây
DaLLas vui vầy ,tràn hạnh phúc
Vợ chồng hòa hợp,tít mù say
Ngừng thơ quên bạn,buồn năm phút
Chúc phúc lứa đôi bát nước đầy !
THIÊN HẬU

Họa :Xin Khoan...
Hai chục hai mươi sắp tới này
Huynh ngừng viết lách để ngơi tay ?
Giật mình,dám hỏi: thân không khỏe?
Thót bụng,xin thưa:dạ hết say ?
Trộm nghĩ,nhờ thơ quên sóng nước
Thầm mong,cậy bút lãng trời mây
Hãy suy tính lại,chưa nên nghỉ
Nghiệp dĩ đa mang, phải trả đầy !
Thanh Hoà

Họa :Đừng Buông Thơ 
Xướng họa vần thơ với hội này
Sao người lặng lẽ muốn dừng tay 
Thi còn chảy mãi xinh dòng suối
Phú vẫn tuôn hoài đẹp áng mây
Giải trí duyên đời quên khổ não
Giao hoà lẽ sống xoá buồn say
Tao nhân mặc khách đùa sông nguyệt
Chớ bỏ mà đi bạn khóc đầy
Minh Thuý( Thành Nội )
    Tháng 1/5/2020
Họa :CHO ĐỜI VUI TRỌN
Có duyên nên mới gặp nhau đây !
Sao vội buông lời :” bút bỏ tay “?
Chửa cạn nước cờ đà thấm mệt
Chưa tàn cuộc rượu đã ngà say
Trang thơ Nguyệt Lãm còn gom gió
Nét chữ Lãng Phong vẫn góp mây
Một kiếp tơ tằm xin nhã kén
Cho đời trọn vẹn nỗi vui đầy
songquang
(Cuối năm 2019)

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2019

7 phát minh tuyệt kỹ của người Trung Hoa cổ đại hiện đã bị thất truyền

Trung Hoa là một trong những quốc gia có lịch sử lâu đời nhất trên thế giới với nền văn hóa 5000 năm rực rỡ. Nhắc đến văn hóa truyền thống Trung Hoa ta không thể không kể đến những sản phẩm thủ công mỹ nghệ được làm ra từ các nghệ nhân tài hoa như tơ lụa, đồ gốm, điêu khắc,… Dưới đây là 7 phát minh tuyệt kỹ của người Trung Hoa cổ đại hiện đã bị thất truyền.
1. Lư hương
Lư hương là vật dụng thường được làm bằng đồng, bên trong bỏ than nóng, được dùng để sưởi ấm nên được coi là vật dụng quen thuộc của người xưa, có thể cầm tay hoặc thường được để bên trong chăn để giữ ấm.
Lư hương
Bên ngoài là hình cầu, ở giữa có hai đến ba lớp vòng tròn đồng tâm, ở giữa là nơi đặt than. Điểm đặc biệt chính là dù than có nóng đến thế nào, có rung lắc thế nào than đều được đặt nằm ngang, nên tuyệt đối không gây tổn thương cho người sử dụng. Vật lý học hiện đại giảng cách tốt nhất để giữ thăng bằng các vật có trọng lượng là dùng một điểm tựa. Lư hương của người phương Đông được kết cấu có có một con quay, so với phát hiện của Tây phương vật lý học thì có thể nói là sớm hơn 1000 năm.
2. Đèn đồng hình nhạn ngư thời Tây Hán
Trong một ngôi mộ thời Tây Hán (221 TCN – 24 SCN), hai cây đèn đồng có thể ‘nuốt’ khói được phát hiện. Các nhà sử học đã gọi đây là những cây đèn ‘thân thiện với môi trường’ đầu tiên được biết đến trên thế giới.
Đèn đồng hình nhạn ngư thời Tây Hán.
Hai chiếc đèn đều có hình dáng con chim nhạn đang ngậm cá trong miệng. Điểm đáng lưu ý ở đây là con cá. Khói tỏa ra khi đốt sáp sẽ tiến vào thân thể con chim thông qua một lỗ thông trên mình con cá. Sau khi di chuyển qua phần cổ chim, khói sẽ tan biến trong nước trữ ở khoang bụng rỗng.
Việc sản xuất các loại đèn đồng đã gia tăng trong thời nhà Hán. Tuy nhiên, hai chiếc đèn được phát hiện là sản phẩm đầu tiên thiết kế theo kiểu hút khói được biết đến, và nhiều khả năng chúng thuộc về tầng lớp quý tộc. Bên cạnh đó, độ sáng của bóng đèn có thể được điều chỉnh bằng cách xoay chụp đèn, và các bộ phận có thể được tháo rời để lau rửa.
3. Chiếu ngà
Vào những năm 1960, khi các nhân viên của Bảo tàng Cố cung kiểm tra các cổ vật của nhà Thanh, họ đã tìm thấy một chiếc chiếu ngà trong kho, được trộn lẫn giữa nhiều chiếu trúc khác. Do màu sắc của chiếc chiếu tươi sáng, nên nó đã thu hút sự chú ý của các nhân viên bảo tàng. Theo ghi chép lại trong cuốn “Cách chí kính nguyên”, chiếc chiếu ngà này được làm trong thời Ung Chính và Càn Long.
Đây là một món quà được các quan chức Quảng Đông sử dụng để dâng lên hoàng đế.
Nguồn gốc và cách làm chiếc chiếu ngà này cũng được mô tả trong cuốn sách “Cách chí kính nguyên”. Do tính chất cứng và giòn của ngà voi, khí hậu phía bắc quá khô nên chiếu chỉ có thể được làm ở phía nam ẩm ướt. Hơn nữa, ngà voi cũng được ngâm trong một loại thuốc đặc biệt để đạt được kết cấu mềm và mượt. Tuy nhiên, công thức của loại thuốc này không được ghi lại trong cuốn sách. Bên cạnh đó bởi chi phí sản xuất quá đắt đỏ nên với một vị vua luôn thi hành chính sách cần kiệm như Ung Chính, ngài đã hạ lệnh ngừng hoàn toàn việc sản xuất. Từ đấy, quy trình sản xuất chiếc chiếu này đã bị thất truyền.
Một trong hai chiếc chiếu ngà duy nhất được lưu giữ ở Cố Cung và bảo tàng tỉnh Sơn Đông.
Vậy, chiếc chiếu ngà được sinh ra lần đầu tiên trong triều đại nào? Trong “Tây kinh tạp kỹ” do Lưu Hâm viết vào thời nhà Hán, có một đoạn ghi chép “Ban cho Lý phu nhân chiếu ngà voi”. Cuốn sách cũng mô tả kết cấu của chiếc chiếu ngà. Kết cấu tốt và đồng đều, bề mặt mịn, mềm mại và thoải mái, có thể cuộn lại tùy ý. Từ đó có thể thấy, chiếu ngà ra đời từ thời nhà Hán, và luôn được coi là đồ dùng của giới quý tộc.
Tuy nhiên, riêng việc bảo quản chiếu  đã là một việc khó khăn, nên những chiếc chiếu ngà được lưu truyền tới ngày nay chỉ còn hai cái, và chúng vô cùng quý giá, ước tính mỗi chiếc có giá vài triệu đô.
4. Chiến xa đồng thời Tần
Năm 1980, các nhà khảo cổ học đã khai quật được rất nhiều cổ vật thời nhà Tần, trong đó đáng chú ý nhất chính là hai cỗ xe ngựa bằng đồng, hiện nay đang được bảo tồn trong Bảo tàng về lăng mộ Tần Thủy Hoàng.
Một trong hai cỗ xe ngựa đồng khai quật được, cỗ xe này thường dùng với mục đích nghỉ ngơi.
Hai cỗ xe ngựa này có kích thước bằng một nửa xe ngựa thật dưới thời Tần và là món đồ đồng lớn nhất từng được tìm thấy trên thế giới. Mỗi cỗ xe bao gồm hơn 3.000 bộ phận tinh xảo, cho thấy tay nghề bậc thầy của người xưa.
Cỗ xe trong bức ảnh trên dài 317 cm và cao 106 cm, không gian chỗ nghỉ phía sau với chiều rộng 78 cm và chiều dài 88 cm, với tổng trọng lượng lên đến 1241 kg. Cửa sổ được thiết kế có thể kéo trượt, sang hai bên.

Cỗ xe ngựa thứ hai được khai quật, thường được dùng đi thị sát, ngắm cảnh và đi săn.
Điểm đặc biệt của cỗ xe ngựa này nằm ở phần cán dù, dù được mở to vừa có thể che mưa, che nắng; bên trong còn được cấu tạo thêm các loại cơ quan, cất giấu bên trong các vũ khí sắc bén.
5. Cổ kiếm của Việt vương Câu Tiễn
Được chế tạo cách đây hơn 2500 năm, nhưng thanh kiếm của Việt Vương Câu Tiễn, thời kỳ Xuân Thu vẫn vô cùng sắc bén và không hề có dấu hiệu bị xỉn màu hay hoen gỉ.

Dài khoảng 55,7 cm, nặng 875 gram, lưỡi kiếm rộng 4,6 cm, chuôi kiếm dài 8,4 cm và trải qua hàng ngàn năm dưới lòng đất trong môi trường ẩm thấp, nhưng thanh kiếm của Câu Tiễn dường như đang thách thức thời gian.
Qua phân tích, các nhà nghiên cứu cũng ngạc nhiên khi phát hiện thành phần của thanh kiếm đặc biệt này còn có một lượng nhỏ các chất sắt (Fe), chì (Pb) và tỷ lệ cao giữa lưu huỳnh (S) và đồng (II) sunfua (CuS) giúp chống gỉ sét. Tuy nhiên, cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể tìm ra công thức và phương pháp chế tác thanh kiếm này, điều này cho thấy tay nghề “bậc thầy” thời cổ đại.

Trong quá trình khai quật, một nhà khảo cổ đã vô cùng kinh ngạc khi trông thấy thanh kiếm này trong hầm mộ hơn 2.000 năm tuổi. Ông đã nảy ra ý định là thử độ sắc bén của thanh kiếm và trong lúc loay hoay đã bị đứt tay, chảy máu. Ngoài ra, một thử nghiệm được các nhà khảo cổ học tiến hành, cho thấy thanh kiếm sắc bén này có thể dễ dàng cắt xuyên qua một chồng gồm 20 mảnh giấy.
Phần chuôi kiếm được quấn lụa, trong khi núm kiếm được tạo thành từ 11 hình tròn đồng tâm xếp chồng lên nhau. Đây được coi là một trong những loại kiếm xuất hiện sớm nhất tại Trung Quốc và có mối liên hệ mật thiết với thần thoại ở quốc gia này.
6. Tôn Bàn của Tăng Ất Hầu
Tôn bàn
Năm 1978, Tôn Bàn được khai quật trong ngôi mộ của Tăng Ất Hầu (khoảng 475 TCN – 433 TCN) ở tỉnh Hồ Bắc, nay đang được bảo tồn trong bảo tàng tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
Tôn Bàn được dùng như vật đựng rượu, được ghép từ tôn (bình chứa rượu) và bên dưới là chậu đựng nước. Tôn sâu 33,1 cm, miệng rộng 25 cm, nặng 9kg; chậu cao 24 cm, chiều rộng là 57,6 cm và sâu 12 cm và nặng 19,2kg.
Tôn bàn có kết cấu vô cùng phức tạp với 34 các bộ phận ghép lại với 56 phần được đúc và hàn mà tạo thành một thể. Mặt trên chạm khắc hơn nghìn con vật đang cuộc tròn, như rồng cuộn, ly cuộn (loại rồng không có sừng)…
Tôn Bàn được đánh giá là một trong những di vật bằng đồng tinh tế và cao cấp nhất.
7. Quả cầu ngà voi
Quả cầu ngà voi
Quả cầu ngà voi là sản phẩm được trang trí hoa văn công phu, gồm các quả cầu đồng tâm, mỗi khối cầu đều có thể tự xoay và được cấu tạo bởi cùng một chất liệu.
Những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo này được tạo thành từ 3-7 lớp, đặc biệt quả cầu lớn nhất thế giới có đến tận 42 khối cầu đồng tâm. Quả cầu có thể được treo bằng một sợi dây hoặc trưng bày trên giá đỡ được thiết kế đặc biệt.
quả cầu
Quả cầu gồm rất nhiều lớp hình cầu đồng tâm tách biệt.
Điều đáng kinh ngạc là các quả cầu nhỏ bên trong đều có thể dịch chuyển riêng biệt đến khi tất cả các lỗ thẳng hàng, đến giờ phương thức chế tạo vẫn luôn được coi là bí ẩn lớn. Điều đó cũng cho thấy tài năng bậc thầy, đỉnh cao của các thợ nghề thời cổ đại đáng kinh ngạc đến mức nào!

Trâm Anh(daikynguyen)
Nguồn: Sound of Hope (Bài và ảnh)