Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2025
Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2025
Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025
NKĐ (T.3/2025. 3 ) : QUẠNH HIU,GIẢ,TRẢ
Marché au Tonkin (Chợ ở Tonkin), 'Jos-Henri-Ponchin' (góc trái dưới) 1930
QUẠNH HIU
Gặp lúc khó , mượn tiền chậm trả
Thì ruột rà lại hóa người dưng
Xưa nay , nhân thế đã từng
Đừng có trách tiền là vô cảm
Không tư duy - thích lắm bùi tai !
Cho nên nghĩ lại hỡi ai
Ruồi kia chết bởi mật, hay là gì ?
Cha mẹ mất, của thì ôm hết
Cứ mặc tình , ai chết mặc ai
Chỉ vì cái bệnh bùi tai
Bệnh không thuốc chữa, mấy ai ưa nào ?
Thì cứ ráng làm cao đỉ vậy !
Mai chết rồi, của ấy đem theo ?
Chắc là lại hóa ra nghèo
Người thân bỏ mặc , quạnh hiu một mình
.8g58.30/3/2025
Ngô Kế Đang.
2./ GIẢ. TRẢ
Lên mạng quảng cáo đủ điều
Nào đo đường huyết, đo liều ô - xi
Đo liền nhịp đập tìm chi ?
Chỉ là gian trá, cố ghi lừa người !
Rằng ta bị gạt, nghe lời điêu ngoa !
16g18.31/3/2025
Ngô Kế Đang
CHẺ CỦI -Thơ Bửu Tùng và Thơ Họa
CHẺ CỦI
Ra vườn chẻ củi giống tiều phu
Cái thú miền quê nét đặc thù
Tắm nắng tia hồng phơi phới rọi
Nghe làn gió mát nhịp nhàng ru
Thân mềm thoải mái vung rìu mạnh
Lõi cứng kiên trì dụng búa nhu
Chạnh nhớ thôn chiều thơm khói lượn
Mơ ngày quẳng gánh chuỗi phiêu du
Bửu Tùng
30/3/2025
Thơ Họa:
1./ RƯỢU UỐNG CÙNG TRĂNG
Dãi dầu mưa nắng, kiếp nông phu
Rỗi rãi mời trăng rượu tạc thù
Tích tịch thiềm cung, tiên nữ hát
Rì rào bến mộng, khách trần ru
Thân nghèo nỡ chịu tìm hư huyễn
Phận yếu cam đành sống nhược nhu
Thỉnh thoảng vui nhờ vài xị đế
Say nằm ngủ dưới bóng vân du
Lý Đức Quỳnh
3/4/2025
2./ TẬP TU
Vào chùa tu tập sáng công phu
Khai mở từ bi dẫu kẻ thù
Gánh nước tưới rau đâu quản ngại
Quét vườn ươm hạt thật nhàn ru
Đêm đêm thiền toạ theo hơi thở
Sớm sớm kinh hành bước nhẹ nhu
Tịch tỉnh đưa tâm vào chánh niệm
Hít sâu buông xuống những phù du
Kiều Mộng Hà
April.04.2025
3./ Cẩn họa :GIEO HẠT
Chân đất nhịp nhàng bước lão phu
Lòng không vướng bận những căm thù
Gieo hạt xuống đời như nhịp thở
Rắc mầm lên cõi tựa lời ru
Nắng hong áo cũ, hồn trong trẻo
Gió rụng hoa khô, ý thuận nhu
Một kiếp phù sinh không níu giữ
Ôm chồi nhân nghĩa bước phiêu du
Lòng không vướng bận những căm thù
Gieo hạt xuống đời như nhịp thở
Rắc mầm lên cõi tựa lời ru
Nắng hong áo cũ, hồn trong trẻo
Gió rụng hoa khô, ý thuận nhu
Một kiếp phù sinh không níu giữ
Ôm chồi nhân nghĩa bước phiêu du
Dương Thượng Trúc
Houston, April 4/2025
Houston, April 4/2025
Lưng cúi vai gồng nhọc dáng phu,
Quanh năm sớm tối chẳng ghi thù.
Chất đầy gỗ cấp cho nung nấu,
Lửa cháy nóng bừng gánh nhẹ ru.
Búa bủa sức trao thêm mạnh vóc,
Tâm kiên lo mãi dựng bền nhu.
Xóm lành chim chóc đu bay lượn,
Lao động đem nguồn lợi rải du.
*
Mặc cho tham vọng thế đeo đu.
HỒ NGUYỄN (04-4-2025)
5./ Kính Họa Vận : MỘNG LÃNG DU…
Thịt bắp vai u, kẻ thất phu
Đô con lính tráng diệt quân thù
Điểm hồng dưới nắng nghe phơi phới
Gió mát trong mưa thấy khỏe ru
Thoải mái thân trai vung búa mạnh
Kiên trì cội rễ chặt rìu nhu
Về quê chạnh nhớ mờ sương khói…
“Quẳng gánh lo đi” mộng lãng du…
MAI XUÂN THANH
Silicone Valley, April 4, 2025
6./ Kính họa: Chẻ Củi
Chẻ củi, đương thời bậc sĩ phu
Như đang múa bút diệt quân thù
Cưa ngang dễ ợt nhìn êm ái
Bửa thẳng ngon lành thấy nhẹ ru
Nặng nhọc tu tâm rèn ý chí
Kiên trì dưỡng tánh đúc cương nhu
Đông dài sưởi ấm chờ xuân lại
Đốt lửa rung đùi đợi lão Du!
Chu Hà
7./ PHẬN SĨ PHU
Nợ nước vuông tròn phận sĩ phu
Giữ yên bờ cõi diệt quân thù
Rời đời quân ngũ lòng vui thật
Xong giặc biên thuỳ dạ khỏe ru
Huynh đệ sẻ chia cần thuận thảo
Hàng binh đối xử phải hoà nhu
Thanh bình trở lại cùng con cháu
Quá khứ xem tuồng cuộc lãng du
songquang
20250404
8./ TỰ THÁN
Tự thán phận mình, kẻ thất phu
Đành theo mệnh nước, lánh xa thù.
Màu cờ nếp cũ hằng gìn giữ
Tuổi hạc thân già khiến ngủ ru.
Một kiếp tha hương mong ẩn dật
Nửa đời viễn xứ chọn khiêm nhu.
Quỹ thời gian đã không còn mấy
Chuẩn bị hành trang, nước Phật du...
DUY ANH
04/06/2025
9./ CHẺ CỦI
Tập thiền chẻ củi ấy công phu
Chẳng nghĩ hơn thua bạn với thù
Dựng đứng gốc lên nhìn thẳng thóm
Bửa ngay rìu xuống tách êm ru
Tâm không vọng động thu thần lực
Trí cũng lặng chìm giữ đạo nhu
Quán suốt trần gian là ảo mộng
Thân hòa vô ngã bước vân du
Hưng Quốc
Texas 4-6-2025
10./ Thiền Bổ Củi.
Bổ thẳng,cưa ngang tựa diệt thù,
Vui lòng,mượn việc của nông phu
Lên gân ,xẻ dọc hoài …bền bỉ,
Gồng bắp,cong mình mãi …nhẹ ru
Chuyên luyện hình hài thêm tráng kiện,
Chăm thiền trí não giảm mềm,nhu
Ơn trời thoải mái đời còn lại,
Cảm đất bao dung lúc viễn du…
ThanhHoà
07/04/2025
Thứ Tư, 9 tháng 4, 2025
ĐIỆU BUỒN CHỚM HẠ , CƠN MƯA ĐẦU ĐỜI - Thơ Ngọc Ánh
ĐIỆU BUỒN CHỚM HẠ
Thoáng xa xa giọng ru chiều tha thiết
Gợi nhớ về trong tiềm thức xa xưa
Cơn gió Lào oi ả giấc ban trưa
Cung điệu Hè về vang vang dìu dặt
Bạn lòng ơi! Lưu luyến buổi chia tay
Ngôi trường kia đã in bóng bao ngày
Thư ai ngỏ chép bằng màu mực tím
Mái tường rêu biết bao nhiêu kỷ niệm
Áo học trò trắng xoá tóc thề bay
Tiếng ve sầu ngân vọng buổi chiều nay
Màu hoa đỏ một thời tha thiết quá
Trong sân trường nhánh bàng xanh thay lá
Cũng không còn nắc nẻ tiếng cười vui
Ngày chia tay cùng luyến tiếc ngậm ngùi
Mùa Thu tới biết có còn gặp lại
Nhớ nhung nhiều những ngày xưa thân ái
Người phương trời người góc biển chơi vơi
Biết tìm đâu trên vạn nẻo đường đời
Bao tiếc nhớ hằn sâu trong ký ức
Hạ lại về dưới nắng hồng rưng rức
Chập chờn theo gió áo trắng ai bay
Cánh phượng hồng rơi như những tàn phai
Kỷ niệm cũ vẫn còn trong tâm tưởng
Ngọc Ánh nguoideplongyen
Đêm đêm hoài trăn trở ,
Trong lòng bao ngổn ngang,
Cõi trần ai ngàn lối
Biết đâu là bến bờ.
Mình vẫn luôn ước ao,
Mối tình màu hoa đào,
Mới lần đầu gặp gở,
Đã thấy lòng xuyến xao.
Đưa nhau chưa tới bờ,
Vườn tình mưa đã rơi,
Người vội vàng quay bước,
Người về trong đơn côi.
Chia tay trong ngỡ ngàng
Đành lỡ chuyến đò ngang,
Vì lòng người nông nỗi
Tình sầu trôi miên man.
Giờ đây người đã xa,
Cuối trời mây bao la,
Đã bao mùa lá rụng,
Tình xưa vẫn chưa nhòa
Tàn rồi cơn ão mộng
Nghe mưa dột trong lòng,
Đò chiều rời bến vắng,
Tình có cũng như không,!!..
Người đi tìm danh lợi,
Kẻ ở lại ngậm ngùi,
Tìm quên trong giọt đắng,
Đời sao quá cay chua
Đường đời đi đã khó,
Đường tình khó vạn lần,
Một mình mình đối bóng,
Sầu này sao cho nguôi
Ngọc Ánh Nguoideplongyen
TIẾNG ĐÀN ĐÊM - Thơ Sông Thu và Thơ Họa
TIẾNG ĐÀN ĐÊM
Văng vẳng đâu đây một tiếng đàn
Nửa như oán trách, nửa than van
Lòng người cô phụ sầu dai dẳng
Dạ kẻ thất tình muộn chứa chan
Phận lão bơ vơ nơi đất khách
Thân côi lạc lõng chốn trần gian
Nỗi niềm đồng cảm dâng dào dạt
Có khác chi ta... kiếp lỡ làng !
Sông Thu
( 07/04/2025 )
Thơ Họa:
1./ LỠ NHỊP ĐÀN
Buồn vương trĩu nặng rối cung đàn!
Gửi gắm tơ lòng bởi ngại van!
Dạo bản tình ca lời đắng quyện
Mơ thời dĩ vãng giọt sầu chan
Tim nồng ấm áp hoài chân thật
Xứ lạnh yên bình chẳng dối gian
Tỏ thiệt niềm riêng người chửa thấu
Thì thôi trở lại viếng quê làng!
Như Thu
04/07/2025
2./ MƯỢN ĐÀN.
Làm quen giả bộ mượn cây đàn
Chút xíu trả liền nài nỉ van
Đã bảo không cho,nàng nũng nịu
Đành thưa cứ đợi, giọng buồn chan
Mắt xanh xao động lòng quân tử
Môi thắm rạng ngời chốn thế gian
Thầm lặng,cây si trồng cửa nhỏ
Xua tay, về chửa ẻm la làng!
LAN.
(08/04/2025).
3./ ĐÀN KHUYA
Từ đâu vọng lại mấy cung đàn
Réo rắt ngậm ngùi nỗi oán than
Khuynh quốc lạc loài đời viễn xứ
Vong gia khắc khoải lệ hòa chan.
Quân kỳ một thuở vang hùng khí
Chiến tích bao lần rạng thế gian
Thương tiếc những anh linh tử sĩ
Xác thân còn gởi lại buôn làng
Dương Thượng Trúc
Houston, April 07/2025
4./ CUNG ĐÀN…
Tình em vương vấn dạo cung đàn
Tâm sự cùng ai khổ đắng van…
Mấy bản thương ca tình cảm động
Bao bài vọng cổ nghĩa nhân chan
Đường xưa lẻ bóng, gần quê Mẹ
Lối cũ đơn thân giữa thế gian
Khắc khoải trông về nơi đất Tổ
Bâng khuâng chạnh nhớ chốn thôn làng…!
MAI XUÂN THANH
Silicone Valley , April 07, 2025
5./ TÌNH NHÂN THẾ
Vẫn khúc tình vơi thủ thỉ đàn
Thương mình trách phận nỗi sầu chan
Nom trời nhạt lắng trùm muôn cỏi
Dõi ráng phai dần khuất bản làng
Có phải tơ vò dày bịp thán
Hay vì điệu chuốc khiến quyên van
Nhân chừng ấy bậc cung màu … nhuốm
Khổ sướng vui buồn… cảm thế gian…
Mai Vân-VTT
08/4/25.
7./VẤN
Giờ đây đêm tối có ai đàn
Vọng lại canh dài những tiếng than
Réo rắt cung thương ai oán thán
Dặt dìu điệu nhạc giọt sầu chan
Đường khuya sương nén đau lòng núi
Lối vắng trăng soi xót xóm làng
Trổi khúc tơ lòng như đã cũ
Ngọn buồn đeo đẳng bóng thời gian.
Silicone Valley , April 07, 2025
5./ TÌNH NHÂN THẾ
Vẫn khúc tình vơi thủ thỉ đàn
Thương mình trách phận nỗi sầu chan
Nom trời nhạt lắng trùm muôn cỏi
Dõi ráng phai dần khuất bản làng
Có phải tơ vò dày bịp thán
Hay vì điệu chuốc khiến quyên van
Nhân chừng ấy bậc cung màu … nhuốm
Khổ sướng vui buồn… cảm thế gian…
Mai Vân-VTT
08/4/25.
7./VẤN
Giờ đây đêm tối có ai đàn
Vọng lại canh dài những tiếng than
Réo rắt cung thương ai oán thán
Dặt dìu điệu nhạc giọt sầu chan
Đường khuya sương nén đau lòng núi
Lối vắng trăng soi xót xóm làng
Trổi khúc tơ lòng như đã cũ
Ngọn buồn đeo đẳng bóng thời gian.
2025--04-08
Võ Ngô
8./ BÓNG CHINH NHÂN
Nhà bên vang vọng tiếng ai đàn?
Chẳng khác như lời đoạn vãn van
Mường tượng tái tê châu ắp ứ
Nghĩ thầm ướt át lệ hòa chan
Của người cô phụ thời chinh chiến
Hay kẻ hiền thê buổi dối gian
Chờ đợi bao ngày nơi cuối xóm,
Như nhiều thiếu nữ của thôn làng.
Thái Huy 4/08/25
9./ĐÊM KHUY
Võ Ngô
8./ BÓNG CHINH NHÂN
Nhà bên vang vọng tiếng ai đàn?
Chẳng khác như lời đoạn vãn van
Mường tượng tái tê châu ắp ứ
Nghĩ thầm ướt át lệ hòa chan
Của người cô phụ thời chinh chiến
Hay kẻ hiền thê buổi dối gian
Chờ đợi bao ngày nơi cuối xóm,
Như nhiều thiếu nữ của thôn làng.
Thái Huy 4/08/25
9./ĐÊM KHUY
Đêm khuya ai dạo nhịp cung đàn
Sông nước lửng lờ rõ oán van
Sợ hãi sói rừng lo chạy trốn
Kinh hoàng người với lệ sầu chan
In sâu ký ức mùa ly loạn
Bừng tỉnh mất còn cảnh thế gian
Thân phận tàn phai nơi đất khách
Thương về quê mẹ nhớ thôn làng !..
Yên Hà
8/4/2025
10./ KHÚC CHIÊU QUÂN
Rằng: nghe nổi tiếng tỳ bà đàn
Ngưỡng mộ từ lâu đâu ngại… van
Trân trọng đốt trầm tâm kính cẩn
Rửa tai thắp nến lòng hoà chan
Giai nhân kỳ ngộ…nan tái đắc
Kỳ nữ dễ gì… hiếm thế gian
Bỗng nhớ Kim-Kiều lần gặp gỡ
Khúc Chiêu Quân phận bạc xa làng…
Kiều Mộng Hà
April.07.1025
11./ TIẾNG THU
Một tiếng thu sang tựa phím đàn
Âm vui như thể nỗi niềm chan
Lao xao lá rụng bên thềm cửa
Lơ lửng mây trôi trước ngõ làng
Khóm trúc lưa thưa lòng chẳng vợi
Bờ sông lau lách gió thầm van
Cung thương mấy bậc tay sầu lặng
Nốt bổng trầm hồn lạc thế gian.
Lê Mỹ Hoàn
4/2025
12/ LẮNG TIẾNG ĐÀN KHUYA
Đêm khuya văng vẳng, lắng cung đàn
Ai oán, bổng trầm xiết não van
Hồn kẻ đơn thân bao nỗi chất
Lòng người viễn xứ đẫm châu chan
Lặng nghe từng nốt trong cô tịch
Gắng sẻ cùng ai giữa thế gian
Da diết nhịp chùng canh trở sáng…
Sầu dây dưa mãi giấc lơ làng …
CAO BỒI GIÀ
08-4-2025
13./ ĐÊM NGHE SÓNG BIỂN
Sóng biển đêm nghe uẩn ức đàn
Vọng lời nhân thế khẩn Trời van
Gió đưa cây cải sầu hoa rụng
Thân ở chốn trần đẫm lệ chan
Lắm bận triều xô bùng vách núi
Đôi hồi sấm chớp xé không gian
Nương dâu ngập mặn, mùa thôi hái
Phụ rẫy nghề xưa nối nghiệp làng
Sông nước lửng lờ rõ oán van
Sợ hãi sói rừng lo chạy trốn
Kinh hoàng người với lệ sầu chan
In sâu ký ức mùa ly loạn
Bừng tỉnh mất còn cảnh thế gian
Thân phận tàn phai nơi đất khách
Thương về quê mẹ nhớ thôn làng !..
Yên Hà
8/4/2025
10./ KHÚC CHIÊU QUÂN
Rằng: nghe nổi tiếng tỳ bà đàn
Ngưỡng mộ từ lâu đâu ngại… van
Trân trọng đốt trầm tâm kính cẩn
Rửa tai thắp nến lòng hoà chan
Giai nhân kỳ ngộ…nan tái đắc
Kỳ nữ dễ gì… hiếm thế gian
Bỗng nhớ Kim-Kiều lần gặp gỡ
Khúc Chiêu Quân phận bạc xa làng…
Kiều Mộng Hà
April.07.1025
11./ TIẾNG THU
Một tiếng thu sang tựa phím đàn
Âm vui như thể nỗi niềm chan
Lao xao lá rụng bên thềm cửa
Lơ lửng mây trôi trước ngõ làng
Khóm trúc lưa thưa lòng chẳng vợi
Bờ sông lau lách gió thầm van
Cung thương mấy bậc tay sầu lặng
Nốt bổng trầm hồn lạc thế gian.
Lê Mỹ Hoàn
4/2025
12/ LẮNG TIẾNG ĐÀN KHUYA
Đêm khuya văng vẳng, lắng cung đàn
Ai oán, bổng trầm xiết não van
Hồn kẻ đơn thân bao nỗi chất
Lòng người viễn xứ đẫm châu chan
Lặng nghe từng nốt trong cô tịch
Gắng sẻ cùng ai giữa thế gian
Da diết nhịp chùng canh trở sáng…
Sầu dây dưa mãi giấc lơ làng …
CAO BỒI GIÀ
08-4-2025
13./ ĐÊM NGHE SÓNG BIỂN
Sóng biển đêm nghe uẩn ức đàn
Vọng lời nhân thế khẩn Trời van
Gió đưa cây cải sầu hoa rụng
Thân ở chốn trần đẫm lệ chan
Lắm bận triều xô bùng vách núi
Đôi hồi sấm chớp xé không gian
Nương dâu ngập mặn, mùa thôi hái
Phụ rẫy nghề xưa nối nghiệp làng
Lý Đức Quỳnh
9/4/2025
14./ TẤM TỨC ĐAU THƯƠNG
Réo rắt phong linh tựa khúc đàn
Bên bàn Phật Tổ mẹ quỳ van…
Đứa con yêu dấu, trùng dương khởi
Vận nước tơi bời, mắt lệ chan
Ngoảnh mặt quê nhà mờ khói súng
Nhìn trời ánh nguyệt rực không gian.
Tháng tư tang tóc Miền Nam hận

Tấm tức đau thương khóc xóm làng!!
Mailoc
04-08-25
9/4/2025
14./ TẤM TỨC ĐAU THƯƠNG
Réo rắt phong linh tựa khúc đàn
Bên bàn Phật Tổ mẹ quỳ van…
Đứa con yêu dấu, trùng dương khởi
Vận nước tơi bời, mắt lệ chan
Ngoảnh mặt quê nhà mờ khói súng
Nhìn trời ánh nguyệt rực không gian.
Tháng tư tang tóc Miền Nam hận

Tấm tức đau thương khóc xóm làng!!
Mailoc
04-08-25
15./ TIẾNG ĐÀN GIỮA ĐÊM
Nữa đêm thanh vắng tiếng ai đàn
Âm điệu bổng trầm tựa oán van
Bi thiết thương tâm lời thấm đượm
U buồn da diết lệ sầu chan
Như câu trách phận nơi cung cấm
Tựa giọng ru tình cõi thế gian
Lang bạt xứ người lòng khắc khoải
Tàn canh thơ thẩn nhớ hương làng
Nữa đêm thanh vắng tiếng ai đàn
Âm điệu bổng trầm tựa oán van
Bi thiết thương tâm lời thấm đượm
U buồn da diết lệ sầu chan
Như câu trách phận nơi cung cấm
Tựa giọng ru tình cõi thế gian
Lang bạt xứ người lòng khắc khoải
Tàn canh thơ thẩn nhớ hương làng
Hưng Quốc
16./ CUNG ĐÀN THÊ THIẾT
Lòng nghe ray rứt tiếng cung đàn,
Như trách như hờn như oán van.
Giọng điệu âm u thê thảm chứa,
Bậc vần réo riết nản sầu chan.
Nghĩ thân lưu lạc đau không chốn,
Vọng tưởng quê nhà nhọc thế gian.
Từng khúc dây khua cao thấp vọng,
Như xưa lìa xứ bỏ xa làng.
*
Đàn ơi! Xin giảm tiếng sầu than!!
16./ CUNG ĐÀN THÊ THIẾT
Lòng nghe ray rứt tiếng cung đàn,
Như trách như hờn như oán van.
Giọng điệu âm u thê thảm chứa,
Bậc vần réo riết nản sầu chan.
Nghĩ thân lưu lạc đau không chốn,
Vọng tưởng quê nhà nhọc thế gian.
Từng khúc dây khua cao thấp vọng,
Như xưa lìa xứ bỏ xa làng.
*
Đàn ơi! Xin giảm tiếng sầu than!!
HỒ NGUYỄN (09-4-2025)exas 4-8-2025
17./ BIỆT KHÚC SẦU .
Ngọc nát, châu tan,rối nhịp đàn
Khúc tương tư đó tuyệt sầu van
Từ nghe lữ khách còn thơ tạ
Tới dứt cung thương vẫn lệ chan
Có phải tình buồn dâng tuế nguyệt
Hay là nghĩa nặng ngập không gian
Hỡi ôi, tất cả toàn hư ảo
Sương khói vương bay tản cuối làng …
Utah 9 - 4 - 2025
CAO MỴ NHÂN
17./ BIỆT KHÚC SẦU .
Ngọc nát, châu tan,rối nhịp đàn
Khúc tương tư đó tuyệt sầu van
Từ nghe lữ khách còn thơ tạ
Tới dứt cung thương vẫn lệ chan
Có phải tình buồn dâng tuế nguyệt
Hay là nghĩa nặng ngập không gian
Hỡi ôi, tất cả toàn hư ảo
Sương khói vương bay tản cuối làng …
Utah 9 - 4 - 2025
CAO MỴ NHÂN
18./ KÍNH HỌA: TRI KỶ CÒN ĐÂU?...
Tích tịch,tình tang vẳng tiếng đàn...
Đêm khuya thanh vắng nhịp sầu vang...
Nhặt nkoan da diết tình cô lữ,
Giấc mộng không thành giọt lệ chan...
Ba mốt xuân qua nơi viễn xứ,
Nỗi niềm thương nhớ ngậm ngùi than...
Âm thầm chiếc bóng trông mòn mỏi,
Tri Kỷ còn đâu...! ..Đã muộn màng...
Mỹ Nga, 10/04/2025.
Thứ Ba, 8 tháng 4, 2025
Tạp Ghi và Phiếm Luận : Chữ TÀI (Đỗ Chiêu Đức)
Tạp Ghi và Phiếm Luận :
Chữ TÀI
TÀI 財 là Tiền Tài 錢 財; TÀI 材 là Tài Liệu 材 料; TÀI 栽 Trồng Trọt ; TÀI 裁 là May cắt; TÀI 纔 là Vừa mới... Ở đây ta chỉ nói về TÀI 才 là năng lực, là sự hiểu biết, là bản lĩnh của người, vật sống chung quanh ta. TÀI 才 thuộc dạng chữ dùng Tượng Hình để Chỉ Sự, có diễn tiến chữ viết như sau:
Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư Khải Thư
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn, Đại Triện là hình tượng của một cây mầm ở dưới mặt đất mới đưa được một lá mầm ở giữa lên trên mặt đất mà thôi. Đến Tiểu Triện thì các nét được kéo thẳng ra và đến chữ Lệ và chữ Khải thì đã giống như chữ viết hiện nay. Vì chữ TÀI 才 có nghĩa gốc là cây mầm non đang vươn lên từ dưới đất với sức sống mạnh mẽ, nên nghĩa phát sinh là cái năng lực tiềm tàng, cái bản lĩnh tiềm ẩn của ai đó kể cả kiến thức hiểu biết và thông suốt mọi việc. Từ tiêu biểu nhất cho chữ TÀI là ...
- TÀI NĂNG 才 能 : là Tài trí và Năng lực, là sự hiểu biết tiềm ẩn chưa được thể hiện và bản lĩnh năng lực làm việc của một người nào đó.
- TÀI NGHỆ 才 藝 : NGHỆ là Ngành nghề, nên Tài Nghệ chỉ giỏi giang hay vượt trội về một ngành nghề hay một bộ môn nghệ thuật nào đó, như thể thao, âm nhạc...
- TÀI HOA 才 華 : HOA nầy không phải là bông hoa, mà là Vầng sáng bên ngoài chung quanh mặt trăng mặt trời; nên HOA là ánh hào quang tỏa sáng. Vì thế nên TÀI HOA có nghĩa là Khả năng tỏa sáng hơn người khác về phương diện nào đó, thường dùng để chỉ các bộ môn nghệ thuật như: Cầm kỳ thi họa... Các Trạng nguyên Tiến sĩ... ngày xưa thường được ca ngợi là TÀI HOA XUẤT CHÚNG 才 華 出 眾 có nghĩa là vượt trội tỏa sáng hơn những người thường về các mặt Tứ thư Ngũ kinh, Thi Từ Ca Phú... Khi lần đầu tiên hẹn ước với Kim Trọng, sau khi ca ngợi chàng Kim "Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn", Thúy Kiều đã tự đánh giá mình "... phận mỏng cánh chuồn", nhưng cũng ngầm ý tự hào thông qua lời thầy "tướng sĩ" đoán trước là:
... Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời TÀI HOA !
- TÀI TRÍ 才 智 : Chỉ Tài năng và Trí tuệ, có nghĩa vừa có tài vừa thông minh, biết xử lý khéo léo trong những trường hợp khó khăn lắt léo.
- TÀI CÁN 才 幹 : CÁN có nghĩa là LÀM, nên TÀI CÁN là có tài năng để thực hiện một công việc nào đó, chứ không phải chỉ nói suông. Có nghĩa "Vừa hiểu biết vừa làm được việc". Như "Anh ta rất có Tài Cán chứ không chỉ biết nói suông!"
- TÀI TÌNH 才 情 là từ Hán Việt thuần Việt, thường dùng để chỉ "Sự giỏi giang và khéo léo đến mức đáng khâm phục". Như "Nét vẽ thật tài tình. Tiếng đàn đó rất tài tình..." Như trong bài hát nói "Cầm, Kỳ, Thi, Tửu" của Nguyễn Công Trứ sau khi trình bày các TÀI HOA của mình như:
Đàn năm cung réo rắt tính tình đây,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
...Cụ đã hạ câu kết là:
TÀI TÌNH dễ mấy xưa nay !
TÀI ĐỨC 才 德 : TÀI là Tài hoa, ĐỨC là Đức hạnh, nên TÀI ĐỨC là vừa có tài hoa lại vừa có đức hạnh; Có nghĩa "Vừa giỏi giang lại vừa khiêm tốn, vừa đắc lực lại vừa có đức độ vị tha", đó là hai tiêu chuẩn không thể thiếu của người quân tử khi xưa, nhất là khi đã ra làm quan thì càng phải chú trọng nhiều hơn về vấn đề TÀI ĐỨC. Có Tài có Đức thì mới là quan thanh liêm cần chính và mới xứng đáng là "Dân chi Phụ mẫu " 民 之 父 母. Người Hoa gọi là "TÀI ĐỨC KIÊM BỊ 才 德 兼 備" Ta nói là "TÀI ĐỨC SONG TOÀN 才 德 雙 全". Còn đối với các bà các cô thì phải có...
- TÀI SẮC 才 色 : Là Tài hoa và Sắc đẹp; như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã đề cao nàng cung phi khi còn chưa nhập cung là:
TÀI SẮC đã vang lừng trong nước,
Bướm ong càng xao xác ngoài hiên...
- TÀI MẠO 才 貌 : là Tài hoa và Diện mạo, nói cho đúng là Mỹ Mạo 美 貌, có nghĩa là "Vừa tài hoa lại vừa có diện mạo đẹp đẽ", như thành ngữ mà ta thường gặp là TÀI MẠO SONG TOÀN 才貌 雙 全, là đầy đủ cả tài hoa và sắc đẹp! Thành ngữ nầy như thành ngữ TÀI MẠO XUẤT CHÚNG 才 貌 出 眾 chỉ: Tài hoa và diện mạo đều hơn người (XUẤT CHÚNG 出 眾 là Vượt lên trên quần chúng nhân dân) Cả hai thành ngữ nầy đều được dùng cho cả nam lẫn nữ.
Trong tác phẩm Sãi Vãi của cụ Nguyễn Cư Trinh cũng đã cho bà Vãi đề cao các giới nữ TÀI MẠO SONG TOÀN, TÀI MẠO XUẤT CHÚNG vừa có TÀI vừa có SẮC từ xưa đến nay như sau:
... Kìa như Châu Thái Tỷ, kinh còn khen đức rạng khuê môn.
Nọ như Tống Tuyên Nhơn, sử còn ngợi nữ trung Nghiêu, Thuấn.
Gái như Tạ Đạo Uẩn, gái mà hay vịnh tuyết thành thơ;
Gái như Thái Văn Cơ, gái mà biết phân cầm nên khúc.
Chương gián chúa khỏi vòng dật dục, ấy là Đường Từ Huệ thứ phi.
Thơ cứu cha khỏi chốn tai nguy, nọ như Hớn Đề Oanh thiếu nữ...
Châu Thái Tỷ, Tống Tuyên Nhơn, Tạ Đạo Uẩn, Thái Văn Cơ, Đường Từ Huệ, Đề Oanh .
* CHÂU THÁI TỶ 周 太 姒 người đời Tây Châu, là chính phi của Châu Văn Vương, Mẹ của Châu Võ Vương. Bà vừa đẹp người đẹp nết, biết phân ưu quốc sự với chồng, dạy con nghiêm khắc, kính trên nhường dưới, rất được bá quan và thần dân kính trọng là một mẫu nghi tài đức trong thiên hạ.
* TỐNG TUYÊN NHƠN 宋 宣 仁 : là Tống Tuyên Nhơn Thánh Liệt Hoàng Hậu Cao Thị (1032-1093). Bà là Hoàng hậu của Tống Anh Tông, mẹ của Tống Thần Tông, và là bà nội của Tống Triết Tông. Bà đã rất hiền đức, chấp chính với chính sách cần kiệm liêm chính, đem lại nền kinh tế phồn vinh và sự an cư lạc nghiệp cho dân chúng dưới đời Tống Triết Tông của thời Bắc Tống. Bà được đời sau ca ngợi là NỮ TRUNG NGHIÊU THUẤN 女 中 堯 舜 (là vua Nghiêu vua Thuấn trong giới nữ).
* TẠ ĐẠO UẨN 謝 道 韞 : là con của tướng quân Tạ Diệc 謝 奕, cháu của thừa tướng Tạ An 謝 安, là vợ của Vương Ngưng Chi con trai thứ của nhà thư Pháp nổi tiếng đời Đông Tấn là Vương Hi Chi. Tạ Đạo Uẩn rất giỏi về văn thơ, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, sắc sảo. Khi Tạ An hỏi các cháu lúc đang ngắm cảnh tuyết rơi là: Có thể lấy gì để ví với tuyết rơi ? Một cháu trai là Tạ Lãng trả lời rằng: Sái viêm không trung sai khả nghỉ 撒 盐 空 中 差 可 拟 (Có thể nói là như rắc muối giữa không trung). Tạ Đạo Uẩn nói rằng: Vị nhược liễu nhứ nhân phong khởi 未 若 柳 絮 因 风 起 ! (Chẳng bằng nói là hoa liễu bay đầy trời khi có gió thổi lên). Tạ An khen hay, Tạ Đạo Uẩn nổi tiếng từ đấy.
* THÁI VĂN CƠ 蔡 文 姬 : tên Diễm 琰, tự là Văn Cơ 文 姬 (có sách cho là Chiêu Cơ 昭 姬) Người quận Trần Lưu, là nữ văn học gia đời Đông Hán, con của nhà văn học Thái Ung, học rộng nhiều tài, giỏi về văn học, thư pháp, âm nhạc, giỏi về đàn cầm, là một tài nữ đương thời. Có chồng là Vệ Trọng Đạo, chồng chết về nhà cha mẹ. Đời Đông Hán, Trung Nguyên đại loạn, bộ tộc Hung Nô thừa cơ làm phản. Thái Văn Cơ bị Hung Nô bắt đi, sanh được hai con ở Hung Nô. Sau khi Tào Tháo thống nhất phương bắc, mới chuộc Thái Văn Cơ về gả cho Đổng Kỵ.
* TỪ HUỆ 徐 惠(627-650): Người đất Trường Thành Hồ Châu, là cháu gái bốn đời của Từ Nguyên Hầu Từ Văn Chỉnh, là trưởng nữ của Thứ Sử Từ Hiếu Đức. Bốn tuổi bà đã thuộc Luận Ngữ và Kinh Thi, Tám tuổi đã biết làm văn. Đường Thái Tông nghe tiếng mới nạp bà vào trong cung làm Tài Nhân. Từ Huệ hưu bút thành văn, tứ thi mẫn tiệp, nên rất nhanh đã thăng làm Tiệp Dư, rồi lại thăng làm Sung Dung, Thứ Phi. Bà là Phi Tần được Lý Thế Dân yêu mến nhất. Cuối năm Trinh Nguyên triều đình bận chinh phạt tứ Di, rồi lại xây cất cung điện, sưu cao thuế nặng, dân chúng lầm than. Thứ Phi Từ Huệ đã làm sớ dâng lên vua can gián và tiết chế đời sống xa hoa trong cung, lời lẽ khảng khái chân thành thẳng thắng được nhà vua hết lời ngợi khen tán thưởng. Sau khi Đường Thái Tông mất, bà cũng ưu sầu nhuốm bệnh rồi mất theo khi mới được 24 tuổi.
* ĐỀ OANH 緹 縈 : Tên họ đầy đủ là THUẦN VU ĐỀ OANH 淳 于 緹 縈, người đất Lâm Chuy đời Tây Hán. Bà là con gái út của Thái Thương Lệnh Thuần Vu Ý. Ý trị bệnh chết người, bị khép tội nhục hình, trên đường bị giải về kinh để nhận tội, Ý than cho gia cảnh của mình chỉ có 5 con gái, đến khi nhà gặp chuyện không có lấy một con trai để đở đần. Nàng Đề Oanh đã theo cha đến tận kinh thành, dâng thơ lên Hán Văn Đế xin làm tì thiếp để chuộc tội nhục hình cho cha, lời văn chân thành khẩn thiết, khiến cho Hán Văn Đế cảm động, chẳng những tha tội cho cha nàng mà còn phế bỏ luôn hình phạt nhục hình tàn khốc. Sử gia Ban Cố đời Hán đã khen trong bài thơ ngũ ngôn "Vịnh Sử" rằng: "Bách nam hà hội hội, Bất như nhất Đề Oanh 百 男 何 憒憒,不 如 一 緹 縈". Có nghĩa: "Một trăm thằng con trai ngơ ngáo, không bằng được một gái Đề Oanh!"
Trong văn học cổ nàng Đề Oanh tượng trưng cho người con gái có hiếu với cha mẹ. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài, nàng Phi Nga giả trai cũng theo về kinh để xin tội cho cha là Văn Sác:
Rằng: Xưa có gái ĐỀ OANH,
Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.
Còn trong Truyện Kiều khi quyết định bán mình chuộc tội cho cha, Thúy Kiều cũng đã đắn đo cân nhắc hết lòng vì chữ hiếu:
Dâng thơ đã thẹn Nàng OANH,
Lại thua Ả Lý bán mình hay sao !?
Những phụ nữ giỏi giang nổi tiếng trong lịch sử từ xưa đến nay được gọi chung là CÂN QUẮC KỲ TÀI 巾 幗 奇 才. CÂN 巾 là khăn tay; QUẮC 幗 là khăn cột đầu. CÂN QUẮC là hai loại khăn thường dùng để làm đẹp của phụ nữ; nên CÂN QUẮC 巾 幗 là từ tiêu biểu dùng để chỉ phái nữ, cũng như TU MI 鬚 眉 (Râu và chân mày) là từ tiêu biểu dùng để chỉ phái nam vậy. Nên CÂN QUẮC KỲ TÀI 巾 幗 奇 才 là thành ngữ chỉ chung giới nữ có những biệt tài kỳ lạ giỏi giang hơn người đời thường.

Ngoài TÚ TÀI ra ta còn hay gặp từ THIỆN TÀI 善 才; THIỆN là Thiện nghệ là giỏi về một bộ môn nghệ thuật nào đó. Ngày xưa THIỆN TÀI thường dùng để chỉ những người giỏi về các bộ môn Cầm Kỳ Thi Họa... Như trong bài thơ trường thiên "Tì Bà Hành" của Bạch Cư Dị, khi nàng ca kỹ già kể lại lúc mình còn trẻ:
曲 罷 常 教 善 才 服, Khúc bãi thường giáo THIỆN TÀI phục,
妝 成 每 被 秋 娘 妒. Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
Có nghĩa :
- Mỗi lần đàn xong một khúc thường làm cho các THIỆN TÀI (chỉ các thầy đàn giỏi) phải khâm phục, cũng như...
- Mỗi lần trang điểm xong đều bị các Thu Nương (chỉ các cô kỹ nữ đẹp như Đỗ Thu Nương) ganh tị (vì thấy mình không đẹp bằng).
Một khúc Thiện Tài thường thán phục,
Điểm trang mỗi độ sánh Thu Nương.
Nhắc đến THIỆN TÀI ta không thể không nói đến danh hiệu THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ 善 才 童 子. Theo Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân thì Thiện Tài Đồng Tử là Hồng Hài Nhi con của Ngưu Ma Vương và Thiết Phiến Công Chúa được Phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát thu phục làm đệ tử. Nhưng theo kinh Hoa Nghiêm thì Thiện Tài Đồng Tử có tên Phạn là Sudhana kumāra sống dưới thời Phật Tổ bên cổ Ấn Độ, được chứng đạo bởi Phổ Hiền Bồ Tát, viên mãn Phật quả, hồi hướng vãn sanh Tây phương cực lạc thế giới. Ta thường thấy bên cạnh của Quan Thế Âm Bồ Tát có: đồng nam và đồng nữ. Đồng Nam chính là Thiện Tài Đồng Tử, còn Đồng Nữ là Long Nữ, theo kinh Pháp Hoa là con của Long Vương Bà Yết La Na Gia (Sagara-nagaraja). Long Nữ thông minh linh lợi, lúc tám tuổi khi nghe Văn Thù Bồ Tát giảng kinh Pháp Hoa, đốn nhiên giác ngộ, thông đạt Phật pháp, phát bồ đề tâm mà thành chánh quả. Thiện Tài Đồng Tử cùng Long Nữ còn được người đời gọi là KIM ĐỒNG NGỌC NỮ đứng hầu hai bên Quan Thế Âm Bồ Tát.
Như trên đã nói, chữ TÀI còn được bổ nghĩa bởi những Hình dung từ đứng trước nó, như TÚ TÀI, THIỆN TÀI, ngoài ra ta còn có :
- ANH TÀI 英 才 : chữ ANH 英 với Thảo đầu 艹 là hình tượng của cây cỏ đang vươn lên với sức sống mạnh mẽ; nên ANH TÀI là Tài hoa trẻ trung đầy sức sống đang vươn lên. Thường được dùng để chỉ những người tuổi trẻ mà tài hoa hơn người.
- HIỀN TÀI 賢 才 : HIỀN 賢 ngoài nghĩa Hiền từ ra, HIỀN còn có nghĩa là GIỎI, như THÁNH HIỀN 聖 賢 là những ông Thánh tài giỏi; HIỀN THẦN 賢 臣 là Bề tôi giỏi giang giúp vua dựng nước giữ nước. Nên HIỀN TÀI là những người có tài giỏi; HIỀN TÀI còn là một trong bốn phẩm Ban Thế Ðạo của Cao Đài Giáo là : Hiền Tài, Quốc Sĩ, Ðại Phu, Phu Tử.
- HÙNG TÀI 雄 才 : HÙNG là con trống, là Hào hùng; nên HÙNG TÀI thường dùng để chỉ "Tài năng xuất chúng của những người làm việc lớn" với thành ngữ HÙNG TÀI ĐẠI LƯỢC 雄 才 大 略 để chỉ những người kiệt xuất có mưu đồ làm nên sự nghiệp lớn. Có xuất xứ từ sách Hán Thư, chương Võ Đế Kỷ Tán 武 帝 纪 赞: nói lên cái HÙNG TÀI ĐẠI LƯỢC của Hán Võ Đế về chính sách cai trị và chăm lo cho đời sống của dân chúng.
- VĂN TÀI 文 才 : Là có tài giỏi về các mặt văn chương, như Thi, Từ, Ca, Phú... VĂN TÀI hiện nay là những người giỏi viết văn, làm thơ, thuyết trình... và những người dẻo miệng, có tài ăn nói giỏi còn được gọi là có KHẨU TÀI 口 才.
- THIÊN TÀI 天 才 là Tài năng do thiên phú, chỉ những người có năng khiếu đặc biệt, có sức tưởng tượng siêu việt, trời sanh ra đã giỏi về các bộ môn nào đó rồi. Ngày xưa THIÊN TÀI là những thần đồng, những người có trí nhớ siêu việt, văn sách đọc qua một lượt là nhớ ngay; Còn THIÊN TÀI của thế giới hiện nay là những nhà Vật lý học, những Khoa học gia như Albert Einstein, Isaac Newton, Michael Faraday...
- LƯƠNG TÀI 良 才 : LƯƠNG ngoài nghĩa Lương thiện ra, còn có nghĩa là Tốt lành, giỏi giắn, nên LƯƠNG TÀI là Tài giỏi. Ta thường nghe thành ngữ "Kỳ phùng địch thủ, Tướng ngộ lương tài 棋 逢 敵 手,將 遇 良 才" Có nghĩa: Đánh cờ gặp phải tay địch thủ, Đánh trận gặp được tướng giỏi giang. Ý chỉ hai bên đều ngang tài ngang sức, khó phân thắng bại. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ Hồi thứ 34 trong truyện Tâu Du Ký của Ngô Thừa Ân tả lại trận đánh giữa Ngân Giác Đại Vương và Tôn Ngộ Không ở trước cửa Liên Hoa Động.
Ngày xưa, các thư sinh suốt mười năm vùi mài với đèn sách bên song cửa sổ không ai thèm hỏi đến, nhưng hễ thi đậu một cái, nhất là đậu Tiến Sĩ với các hàm Trạng Nguyên, Bảng Nhãn hay Thám Hoa thì cả thiên hạ đều biết tên. Nên thi đậu là vừa Thành Danh (nổi tiếng) lại vừa THÀNH TÀI 成 才; cũng như hiện nay thi đậu bằng Luật sư, Kỹ sư, Bác sĩ... thì đều gọi được là đã THÀNH TÀI rồi ! THÀNH TÀI còn có nghĩa là "Nên thân", nên "BẤT THÀNH TÀI 不 成 才 !" là "Không nên thân!" Còn những người không làm nên trò trống gì cả, vô tích sự thì được gọi là DUNG TÀI 庸 才. DUNG là Dung tục, là tầm thường. Nhà văn Kim Dung 金 庸 lấy chữ DUNG nầy với ý khiêm tốn: Mình chỉ là một nhà văn tầm thường mà thôi! Thực ra ông tên thật là Tra Lương Dung 查 良 鏞. với chữ DUNG 鏞 có bộ Kim 金 bên trái, có nghĩa là "Cái chuông lớn". Năm 1955 khi viết quyển tiểu thuyết võ hiệp đầu tay là "Thư Kiếm Ân Cừu Lục 書 劍 恩 仇 錄", ông mới chiết tự chữ DUNG 鏞 ra thành hai chữ KIM DUNG 金 庸 để làm bút hiệu. Rồi từ đó ông nổi tiếng luôn với bút hiệu nầy qua 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp để đời như ta đã biết.
Người có tài lớn, rất giỏi, rất hay thì gọi là ĐẠI TÀI 大 才, giỏi về rất nhiều bộ môn ngành nghề thì gọi là ĐA TÀI 多才. Giỏi một cách kỳ lạ, ngoài sức tưởng tượng của con người thì gọi là QUỸ TÀI 鬼才; còn ngờ nghệch ngu xuẩn thì gọi là XUẨN TÀI 蠢 才. Từ nầy còn được dùng để mắng người khác: "Đồ Xuẩn Tài!" giống như là từ "Đồ Ngu, đồ ngốc!" của ta vậy. Còn những người chỉ biết nịnh bợ, hoặc chỉ để làm tay sai cho người khác thì gọi là NÔ TÀI 奴 才. Lời mắng "Đồ Nô Tài!" giống như là "Đồ Tay sai, đồ hèn hạ, đồ nịnh bợ!" vậy .
TÀI giỏi còn được gọi là TÀI CAO 才 高, như trong thành ngữ TÀI CAO BÁT ĐẤU 才 高 八 斗. Theo tích sau đây:
Tạ Linh Vận 謝 靈 運 (385-433), người đời Đông Tấn ở đất Cối Kê, thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay. Ông nguyên là cháu nội của danh tướng Tạ Huyền 謝 玄, tiểu tự là Khách, nên người đời gọi là Tạ Khách, lại được hưởng tước Khang Lạc Công, nên còn được gọi là Tạ Khang Lạc 謝 康 樂. Ông là nhà thơ khai sáng ra phái Sơn Thủy Thi 山 水 詩, chủ yếu sáng tác thơ tả về núi non sông nước của đời Lưu Tống vào thời Nam Bắc Triều . Ông nổi tiếng với các câu thơ như:
Sơn Thủy Thi là một trường phái lớn của văn học sử thi ca Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến đời Đường sau nầy với các thi nhân lớn như Lý Bạch, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên... Chúa nhà Tống lúc bấy giờ là Lưu Dụ, nên gọi thời nầy là Lưu Tống, bề ngoài thì như xem trọng nhà họ Tạ, nhưng thực tế thì dần dần cắt bớt quyền hành đi, nên Tạ Linh Vận không còn được trọng vọng như trước. Thất ý trên trường chính trị, nên Tạ gởi gắm tâm sự vào tư tưởng Lão Trang qua thơ sông núi. Do bất đắc chí vì tài hoa xuất chúng, nên Tạ luôn tỏ ra khinh thế ngạo vật, cho mình là tài giỏi hơn cả thiên hạ. Tạ đã từng nói là: "Nếu như tất cả tài hoa trong thiên hạ là một thạch (gồm có 10 đấu), thì Tào Tử Kiến 曹 子建 (tức Tào Thực 曹 植, con trai thứ của Tào Tháo, rất giỏi về văn thơ) giữ hết 8 đấu rồi, ta giữ một đấu, còn một đấu là của tất cả những người trong thiên hạ". Câu nói nầy nghe ra có vẻ như là tôn sùng Tào Thực, thực ra là đang xem thường thiên hạ, vì cho là cả thiên hạ cộng lại mới bằng được mình! Do tánh khí và thái độ cao ngạo, nên Tạ Linh Vận làm mất lòng hết các đồng liêu và quyền thần lúc bấy giờ. Cuối cùng, bị biếm đến Quảng Châu và chết ở nơi đó khi mới có 49 tuổi mà thôi.
Dã khoáng sa ngạn tịnh, 野 旷 沙 岸 净,
Thiên cao thu nguyệt minh. 天 高 秋 月 明.
Có nghĩa :
Đồng không bãi cát mênh mông,
Trời thu cao vút trăng lồng bóng gương.
Vì câu nói của Tạ Linh Vận, nên hình thành một thành ngữ thông dụng trong tiếng Hoa là : TÀI CAO BÁT ĐẤU 才 高 八 斗 hay BÁT ĐẤU CHI TÀI 八 斗 之 才 để chỉ những người tài hoa xuất chúng, vượt trôi hơn hẵn những người khác. Thi Tiên Lý Bạch trong bài tự Đào Lý Viên cũng phải hạ câu:
Ngô nhân vịnh ca, độc tàm Khang Lạc.
吾 人 詠 歌,獨 慚 康 樂.
Có nghĩa :
Chúng ta ngâm vịnh ngày hôm nay, chỉ thẹn riêng với ông Khang Lạc mà thôi. (Khang Lạc tức Khang Lạc Công 康 樂 公 chỉ Tạ Linh Vận 謝 靈 運 đó).
Khang Lạc Công 康 樂 公 Tạ Linh Vận 謝 靈 運
Trong văn học sử của ta cũng có một người Tài Cao Bát Đấu nhưng không gặp thời giống như là Tạ Linh Vận vậy, đó chính là...
CAO BÁ QUÁT 高 伯 适 (1809 – 1855) : Tự là Chu Thần (周 臣), hiệu là Mẫn Hiên (敏 軒), lại có hiệu là Cúc Đường (菊 堂), là quân sư trong cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cuộc đời Cao Bá Quát lắm gian truân chìm nổi, bất đắc chí như ông đã than vản trong bài Tài Tử Đa Cùng Phú
才 子 多 窮 賦 rằng:
Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướt thướt, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con ron chiếc chiếu lôi thôi, đêm tịch mịch soi chung vầng trăng tỏ.
Áo Trọng Do bạc phếch, giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao;
Cơm Phiếu Mẫu hẩm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.
Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy;
Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ. ...
Vì tài giỏi nhưng không gặp thời, nên theo truyền thuyết dân gian Cao Bá Quát rất cao ngạo, ông từng nói là:
Trong thiên hạ có 4 bồ chữ.
Một mình tôi giữ hết 2 bồ.
Anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn văn Siêu giữ một bồ.
Còn một bồ phân phát cho thiên hạ !
Ta thấy, Tạ Linh Vận và Cao Bá Quát đều là những nhân tài hiếm thấy và rất có tài đặc biệt trên đời, nhưng vì hoàn cảnh khốn cùng bức bách, sinh bất phùng thời hình thành tính cách cao ngạo với cuộc đời, thậm chí đến nước làm phản để đến nổi thân bại danh liệt, bị tru di tam tộc như Cao Bá Quát thì thật cũng đáng thương và đáng thông cảm lắm thay!
Nhắc tới Tào Thực 曹 植, người mà Tạ Linh Vận cho là có TÀI CAO BÁT ĐẤU, ta lại nhớ đến bài thơ 7 bước (Thất bộ Thi 七 步 詩) của ông. Sau khi lên ngôi là Ngụy Văn Đế, nhưng vẫn còn ganh tị với tài năng của người em, Tào Phi 曹 丕 mới nói với Tào Thực rằng: "Ai cũng bảo là văn tài của nhà ngươi giỏi hơn ta, vậy ta hạn cho ngươi trong vòng bảy bước phải làm xong một bài thơ, nếu không làm được, sẽ trị tôị khi quân". Tào Thực xin đề, thì Tào Phi bảo là: Nói về Anh Em mà không được dùng từ anh em trong bài thơ. Đoạn bắt đầu bước đi và đếm, khi vừa đúng 7 bước thì Tào Thực cũng vừa cất tiếng ngâm:
煮 豆 燃 豆 萁, Chữ đậu nhiên đậu cơ,
豆 在 釜 中 泣. Đậu tại phủ trung khấp.
本 是 同 根 生, Bổn thị đồng căn sanh,
相 煎 何 太 急 ?! Tương tiễn hà thái cấp ?!
Có nghĩa :
- Lấy vỏ đậu để làm củi nấu đậu. Nên ...
- Đậu mới than khóc ở trong nồi rằng...
- Vốn là cùng chung một gốc rể sinh ra.
- Đốt nấu lẫn nhau, sao mà nở nhẫn tâm làm vậy ?!
Củi đậu đem nấu đậu,
Đậu than khóc trong nồi.
Cũng cùng chung một rể,
Nấu nhau đành, hỡi ôi !!!
Bài thơ 7 bước và thành ngữ THẤT BỘ CHI TÀI 七 步 之 才
Tào Phi nghe xong bài thơ, rất xúc động, ôm chầm lấy Tào Thực và từ đó tới sau, không có ý muốn giết hại em mình nữa! Vì tích nầy nên ta lại có được hai thành ngữ nữa: Một là THẤT BỘ CHI TÀI 七 步 之 才; Có nghĩa là "Cái tài chỉ làm thơ trong vòng bảy bước!" Hai là TÀI TỨ MẪN TIỆP 才 思 敏 捷; Có nghĩa "Sự suy nghĩ và cấu tứ rất mẫn tiệp nhanh nhạy!"
Những người có tài mà không gặp thời, gọi là HOÀI TÀI BẤT NGỘ 懷 才 不 遇; Những người có các năng khiếu mà người khác không thể có được thì gọi là HY THẾ CHI TÀI 希 世 之 才; Còn tài năng vượt trội lên trên những người khác không ai bằng được thì gọi là TÀI LỰC SIÊU QUẦN 才 力 超 群 hay còn gọi là NHÂN TÀI XUẤT CHÚNG 人 才 出 眾; Vừa giỏi văn lại vừa giỏi võ nữa thì gọi là VĂN VÕ SONG TOÀN 文 武 雙 全 hay VĂN VÕ TOÀN TÀI 文 武 全 才, hay còn được gọi cho kêu là TÀI KIÊM VĂN VÕ 才 兼 文 武 !
Có tài thì thế, còn không có tài thì gọi là LỤC LỤC THƯỜNG TÀI 碌 碌 常 才 hay LỤC LỤC VÔ TÀI 碌 碌 無 才. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ sách 《Sử Ký. Bình Nguyên Quân Ngu Khanh Liệt Truyện 史 記· 平 原 君 虞 卿 列 傳》 chỉ những người dung tục bình thường, không có tài năng gì đặc biệt. Hay nói một cách lịch sự hơn là TÀI SƠ HỌC THIỂN 才 疏 學 淺 nghĩa đen thui là "Tài Thưa Học Cạn", ta thường nói thành "TÀI HÈN SỨC MỌN". Thành ngữ trên còn được nói thành TÀI THÔ HỌC THIỂN 才 粗 學 淺 để chỉ tài năng thì thô kêch còn sự hiểu biết thì nông cạn.
Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, ta cũng thường hay gặp những trường hợp "Càng cao danh vọng thì dày gian nan", "Lớn thuyền thì lớn sóng"... như Thúy Kiều vậy, vì "Anh hoa phát tiết ra ngoài", nên phải chịu "Nghìn thu bạc mệnh một đời TÀI HOA". Nên chi cụ Nguyễn Du khi kết thúc Truyện Kiều đã viết rằng:
Có TÀI mà cậy chi TÀI,
Chữ TÀI liền với chữ TAI một vần !
...và với thuyết TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ 才 命 相 妒 cho rằng TÀI và MỆNH thường đố kỵ ganh ghét lẫn nhau. Người có tài thì số mạng hay lận đận như để thách thức và những người tài trí bình thường thì cuộc đời cũng sẽ bình thường phẵng lặng hơn, như cuộc đời của Thúy Vân chẳng hạn và theo thuyết nhà Phật thì cho rằng đó là do cái "nghiệp" của mỗi người mà ra, nên cụ lại khuyên ta nên yên phận với "Cái Nghiệp" của mình:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa...
... và lời tâm huyết cuối cùng là :
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI !
Hẹn bài viết tới
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
-
CON MỂN VÀ ĐIỀM BÁO KHÔNG MAY MẮN Con thú rừng có tên “ Mển ” hay“ Mang” , còn gọi là hoẵng , kỉ , là mộ...
-
Bối cảnh lịch sử: Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồ...
-
Năm nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực kh...