Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

"Về Tây Ninh, mùng năm tháng năm - Phi Thành Phát

 In trên báo Tây Ninh - Thứ bảy, 31.5.2025 (5.5.Ất Tỵ)

Mùng 5.5 (nông lịch) trong dân gian thường gọi là tiết (tết) Đoan Dương, tiết Đoan Ngọ hay tết giữa năm,... là một ngày tết truyền thống để mọi người trở về bên gia đình, dòng họ cùng quây quần, sum họp, đoàn viên. Bên cạnh đó, dịp này về Tây Ninh còn có lễ vía Bà Linh Sơn Thánh Mẫu – Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được diễn ra từ mùng 4 đến mùng 6.5.
Theo tục lệ dân gian ở Tây Ninh, vào mùng 5.5, các gia đình, dòng họ nấu mâm cơm canh hay đơn giản có hoa quả dâng cúng tổ tiên, đất đai viên trạch và một mâm cúng chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn. Từ việc làm này đã giáo dục bao thế hệ từ xưa đến nay về tấm lòng hiếu kính các đấng sinh thành, biết ơn mảnh đất nơi chúng ta đang sinh sống và tình thương của con người đối với nhau.
Mùng 5.5 không thể không nhắc đến đi vườn, bánh ú lá tre, các món ăn dân dã như bánh xèo, bánh tráng phơi sương cuốn thịt luộc với rổ rau sông đầy ắp các loại,... mang ý nghĩa của sự tròn đầy, sum họp gia đình, vừa dễ nấu vừa gợi nhớ về thời khẩn hoang mở cõi và làm nên đặc sản của địa phương.
Về Tây Ninh dịp này mọi người còn được hòa trong không khí linh thiêng, vui tươi của lễ vía Bà Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen. Các nghi thức trong lễ vía Bà đặc sắc hơn các vị nữ thần khác ở Nam bộ bởi có sự kết hợp giữa nghi lễ Phật giáo và dân gian, do Bà được chư tổ Phật giáo tôn phong là vị bồ tát hộ trì tam bảo.
Dù xưa hay nay, lòng kính ngưỡng của thập phương bá tánh dành cho Linh Sơn Thánh Mẫu rất cao và hằng năm trở về Tây Ninh dự lễ vía Bà rất đông. Những nét đặc trưng trong văn hóa dân gian dịp mùng 5.5 đã góp phần làm

nên hương sắc của mảnh đất Tây Ninh.



PHƯỢNG TÍM CALI Thơ Mai Lộc Và Bài Họa Của Các Thi Hửu


PHƯỢNG TÍM CALI

Phượng tím Cali tím rợp trời
Từng chùm rực rỡ nắng hồng phơi.
Rì rào gió sớm nhành lơi lả
Nhầy nhụa đường xe xác rã rời.
Phượng vĩ trường xưa lòng bỗng nhớ
Mùa thi năm cũ dạ nào vơi
Bồi hồi kỷ niệm bâng khuâng khách
Heo hút thời gian tuổi mộng đời!

Mailoc (
23-05-2025)

Thơ Họa :

TÍM TRỜI THÁNG NĂM

Cali, phượng nở tím khung trời
Nhuộm sắc mùa hè dưới nắng phơi
Tô cảnh chiều buông hồn khách ngẩn
Theo làn gió cuốn xác hoa rời
Bồi hồi trường lớp lòng xao động
Nhung nhớ bạn bè dạ khó vơi
Năm tháng trôi qua chồng chất nỗi
Giật mình những tưởng lãng quên đời

CAO BỒI GIÀ
24-5-2025



MÙA PHƯỢNG VỸ

Phượng vỹ lung linh dưới nắng trời
Một màu tim tím sắc tươi phơi
Lang thang dạo ngắm hồn mê mẩn
Thong thả nhìn xem mắt khó rời
Nhớ mãi ngày nao mình sánh bước
Thương hoài tình ấy lệ đà vơi
Bao năm vẫn đợi, ai nào biết
Anh đã vô tâm, lặng lẽ đời!

LAN
(25/05/2025)



PHƯỢNG VĨ TRƯỜNG XƯA

Nhìn kia tím rịm cả mây trời
Phượng vĩ nghiêng cành gọn dáng phơi
Nụ thắm hoài trông người muốn gởi
Đài xinh ở lại ý đâu rời
Thơ văn bút tả vần hay đợi
Nhật ký hoa cài nỗi khó vơi
Trước cổng trường xưa chờ bạn tới
Cùng khoe tóc bạc vẫn yêu đời!

Như Thu
05/24/2025



PHƯỢNG HỒNG QUÊ TÔI

Thật đáng yêu con gái dưới trời!
Phượng hồng đỏ sắc rực mùa phơi
Duyên khoe áo trắng tình đang mới
Cảm gợi nhân gian bước chẳng rời
Quê Mẹ tìm về nương một cõi
Đất Cha tưởng niệm xót đầy vơi
Bạn ơi chớ nệ đường vời vợi
Sống trải nắng hè đẹp cuộc đời!

Hải Rừng
25/5/2025


PHƯỢNG ĐỎ SÀI GÒN

Ve râm ran khắp bốn phương trời
Phượng đỏ Sàigòn rực nắng phơi
Lớp cũ thầy cô đành cách biệt
Trường xưa bè bạn phải xa rời
Ngậm ngùi đất tổ tình khôn cạn
Hoài niệm quê nhà nghĩa khó vơi
Vọng tưởng Hè về thăm viếng ngoại
Ngẩn ngơ khách địa xót xa đời

ThanhSong ntkp
CA. 25/05/2025



HOA HÈ GỢI NHỚ

Bằng lăng tím nở rợp khung trời
Cũng dịp vào hè trổ nắng phơi
Cạnh đó Phượng hồng nhìn chẳng dứt
Bên nầy Phượng tím ngó khôn rời
Trường xưa nhung nhớ hoài không cạn
Cảnh cũ bồi hồi mãi khó vơi
Kỷ niệm êm đều lưu bút viết
Hành trang xếp lại bước vào đời

Songquang
20250525



PHƯỢNG ĐỎ CẦN GIỜ

Phượng nở bao la, đỏ rực trời
Từng chùm, từng nhánh rộn ràng phơi
Nắng hè oi ả tô màu thắm
Gió biển xôn xao bứt cánh rời
Đường phố hồng tươi dường pháo nhuộm
Tiếng ve rền rĩ chẳng lần vơi
Cấn Giờ, lộng lẫy ngàn hoa phượng
Đến một lần thôi mãi nhớ đời.

Sông Thu
( 25/05/2025 )
NHỚ HÈ XƯA

Đã mùa phượng tím nở bên trời
Sao nhớ nhung trong dạ chẳng vơi
Lại cũng một lần hoa thắm nở
Mà như bao độ nắng vờn phơi
Chữ phai màu giấy hồn mong đợi
Thư dấu tình riêng mộng tách rời
Khúc nhạc ve sầu còn mãi vọng
Trên cành vương đỏ dậy hương đời.

Lê Mỹ Hoàn
5/2025



MÙA NỞ “ HUYẾT HOA “

Hai mầu tuyệt mỹ vạch ngang trời
Đã vẽ hè qua sắc thắm phơi
Phượng tím Cali buồn não nở
Bụi hồng quê mẹ chẳng buông rời
Thời xưa hạ đỏ trường thi mở
Thủa trước mai vàng tuổi mộng vơi
Mùa kết nụ tình nơi hỏa tuyến
Mỗi bông lửa trổ “ huyết hoa “ đời …

Utah 26 - 5 - 2025
CAO MỴ NHÂN

PHƯỢNG ĐỎ MEXICO

Phượng Vĩ ô hay đỏ rực trời
Lối đi rợp bóng mộng đầy vơi
Sững sờ đường phố nhiều hoa trổ
Ngơ ngác hàng cây lắm đóa phơi
Mê mẩn say nhìn chân khó cất
Thẩn thơ lặng ngắm mắt không rời
Bồi hồi nhớ lại trường tan lớp
Từng bước theo ai thắm thiết đời

Hưng Quốc
Texas 5-26/2025



PHƯỢNG TÍM NHỚ NHUNG

Phượng giữa hè trưa tím ngát trời
Như tà áo lụa dịu dàng phơi
Bờ sông đượm thắm mùa hoa nở
Ngõ núi buồn hiu bóng khách rời
Cố lý mong tìm người lỡ hẹn
Nghìn trùng quặn thắt nỗi chưa vơi
Tha phương hạ gợi niềm xưa cũ
Khiến nhớ nhung thêm quạnh nẻo đời

Lý Đức Quỳnh
29/5/2025


XA TRƯỜNG

Mùa Hè Phượng đỏ nở ven trời,
Bên mái hiên trường rực rỡ phơi...
Báo hiệu mùa chia tay đã đến,
Sân Trường vắng bóng các em rồi...
Học xong một lớp nhiều thay đổi,
Em học,em không sầu khó vơi...
Kỷ niệm học trò sao tả xiết,
Xa trường bè bạn khó quên đời...

Mỹ Nga
29/05/2025 ÂL03/05/ẤTỴ


PHƯỢNG NHỚ


Hè sang phượng nở thắm tung trời,
Áo trắng bẩy bồng nắng kéo phơi.
Ve đón tiếng cành xa rã rượi,
Gió liu hiu giọng nhánh chia rời.
Bạn bè dăm đứa vui đùa giỡn,
Trường lớp cô thầy nhớ khó vơi.
Kỷ niệm bao năm nơi đất khách,
Tình thân luôn ẩn hiện trong đời.
*
Thầy cô bạn học nhớ khôn vơi!

HỒ NGUYỄN
(29-5-2025)



MÙA CHIA TAY

Phượng đỏ sum sê ở phiá trời
Những nàng cánh mỏng chửa buồn rơi
Màu hoa nhung nhớ thời ly biệt
Mùa hạ sắp sang bạn tạm rời
Thuở ấy chăm ngoan còn cố gạo*
Mùa thi lo lắng bận chưa vơi
Bây giờ nhắc lại lòng xao xuyến
Qúa khứ qua đi… hết một đời !

THIÊN LÝ
*chăm học…

PHƯỢNG TÍM CALI- NGHỈ HÈ

Nghỉ hè phượng tím trỗ đầy trời
Hồng điểm ông già tắm nắng phơi
Gió thổi cây nghiêng nhành lá lả
Đường đi bóng rợp cánh hoa rời
Trường xưa phượng vỹ màu tươi thắm
Lối cũ ve sầu sắc đỏ vơi
Kỷ niệm bồi hồi lòng mãi nhớ
Thời gian khắc khoải mộng yêu đời
                          
MAI XUÂN THANH
Silicone Valley, May 28, 2025



SÂN TRƯỜNG - NẮNG HẠ


Vẫn tím bằng lăng phượng ửng trời
Muôn đường lắm nẻo rực màu phơi
Nam Lào dào dạt day chùm lả
Nắng lửa xát xan lụi cánh rời
Đâu buổi sân trường mơ về lắm
Hay thời áo trắng mộng đầy vơi
Giờ đây bóng đỗ ngang chiều cảm
Tiếc khoảng trời thơ nuối cả đời …

Mai Vân-VTT
31/5/25



HÈ ĐẾN

Hè đến bên ta phượng đỏ trời
Nắng khoe sắc thắm đẹp đường phơi
Vòm xanh cao tít hầm cơn gió
Đất thấp ve kêu chẳng thấy rời
Lưu bút học trò thân mến gởi
Ngày xanh tuổi trẻ tình sao vơi
Bồn chồn gần cảnh trường ly biệt
Tâm trạng buồn vui cảm mộng đời ..

Yên Hà
31/5/2025






TÌNH MONG MANH Nhạc và Lời TRƯƠNG QUANG LỘC Ca sỉ :BĂNG DI

 

Mời Xem  Thêm :

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

MẦN ĂN, MỜI NGUYỆT - Thơ anh khờ ,Hồ Nguyễn Họa

 

                                   Ca nương 1875 ảnh của Nét Xưa




mần ăn

quyết chí đổi đời… giã biệt quê
loay hoay tính mãi chửa ra nghề
khi thì sốt sắng… nên buôn khế
lúc lại ngần ngừ... chuộng bán lê
mở quán xào mì lời... xị đế…
ngăn phòng tính thuế lỗ... chầu kê!
mần ăn nghĩ ngợi già là thế!
chỉ việc chăn (thả) dzê khỏe mọi bề!

anh khờ

HỌA: SỐ PHẬN LONG ĐONG

Bao năm ly cách sống xa quê,
Nay đổi mai thay chuyển lắm nghề.
Mệt nhọc đó đây lao động cực,
Lu bu hôm sớm bán la lê.
Khi buồn hẹn bạn cà phê quán,
Lúc rảnh cặp bồ lén thả kê.
Bạc trắng tình đời thay đổi mãi,
Tuổi thơ nhanh khuất khổ trăm bề.
*
Ích chi mà nhớ chuyện khen chê.
HỒ NGUYỄN (29-5-2025)


 MỜI NGUYỆT

ới nguyệt! vào đây nhắp chén trà...
đêm vui mấy khắc... phí chi ta!
thẹn thùng ẩn dáng trên cành liễu…
ngần ngại phô hình dưới nhánh đa?
cửa trước không cài... tùy lúc đến…
hiên sau chẳng khóa... tiện khi ra!
quỳnh hoa lơi lả đùa trong gió
đối ẩm thêm ngây giữa bóng là

anh khờ

HỌA: HẸN NGUYỆT

Nguyệt ơi! Hãy ghé hớp chung trà,
Chỉ có nguyệt cùng ta với ta.
Đôi lứa cùng vui bên bóng liễu,
Hai mình hợp dáng nép cành đa.
Ta chờ nàng cửa chưa cài khóa,
Nàng đến ta chồn chân bước ra.
Hiệp lối ân tình nơi bến đợi,
Má môi giao hợp thích cà là.
*
Giờ thế gian còn Nguyệt với ta.

HỒ NGUYỄN (31-5-2025)

 

NHỚ ĐA KAO

Nhớ Đa Kao

Trang Nguyên
Posted by GLN
Nhắc đến Đa Kao mấy người bạn của tôi thay nhau kể chuyện về vùng đất Đa Kao. Người thì có 3 đời sống gần Cầu Sắt, người thì từ nơi khác đến mua nhà gần rạp Casino, người sống ở Xóm Chùa. Người cũ người mới hội tụ về đây, bao nhiêu kỷ niệm xưa đem ra bày tỏ cho thoả nỗi nhớ.


Rạp Casino trên đường Đinh Tiên Hoàng gần cầu Bông thập niên 1960 (Nguồn: Manhhaiflickr)

Ðiều tôi quan tâm là Đa Kao hình thành từ khi nào và sinh hoạt đời sống của người dân tại đó. Tuy nhiên, có quá ít tư liệu để tìm hiểu về vùng này còn gọi là Đất Hộ, chỉ là những tư liệu hơn sáu bảy chục năm trước. Còn cách lý giải tên gọi Đa Kao của vùng đất này cũng có vài quan điểm khác biệt.

Ông bạn lớn tuổi của tôi có 3 đời cư ngụ gần Cầu Sắt kể rằng: “Đất Hộ hẳn là cái tên xa xưa lắm. Từ thưở tôi còn bé đã nghe ông nội kể nhiều câu chuyện về vùng Đa Kao thời lính Nhật vào Sài Gòn giải giáp quân Pháp”. Đem chuyện nơm nớp lo sợ cảnh giết chóc bắt bớ trong hoàn cảnh xã hội loạn ly thời đó ra bàn luận chẳng khoái chút nào. Ông kể chuyện món ăn hàng quán cho nhau nghe để gợi thèm hương vị ngày xưa đôi chút. Ông nhớ chi tiết về những con đường góc phố thân quen. Nhớ rõ từng tên tiệm buôn hàng quán trên mỗi con đường. Nào là chè Hiển Khánh, kem Vi Bổn, Bánh cuốn Tây Hồ, cà phê Duyên Anh sáng nào cũng tụ họp đám thanh niên trong đó có ông. Quán tên Duyên Anh nhưng người chủ chẳng dính dáng gì tới ông nhà văn có nhiều truyện dài viết cho tuổi thiếu niên gây ấn tượng hơn những thiên văn chương tình cảm xã hội thời bấy giờ. Ông bạn tôi đùa: “Chắc chủ quán “kết” Dzũng Đa Kao nên mới lấy tên người nặn ra nhân vật mà đặt tên cho quán”.

Sinh ra ở vùng Đất Hộ cho nên ông rành rẽ vùng đất gần như khai phá sớm nhất khi mở rộng thành phố Sài Gòn sau khi Pháp chiếm xong thành Gia Định. Mãi đến năm 1889 khi vùng gò cao từ Tân Định (xưa là Phú Hoà) đến Đất Hộ (trước là làng Hoà Mỹ) mới trở thành một khu dân cư đông đúc. Tuy khi xưa là làng Hoà Mỹ nhưng vùng này còn có một cái tên Đất Hộ trên bản đồ do Trần Văn Học vẽ vào năm 1815. Không biết Đất Hộ có phải là địa danh nhưng chắc chắn nó nằm trong phần đất của làng Hoà Mỹ. Có thể Đất Hộ chỉ là vùng đất nhỏ theo cách gọi của người địa phương nhưng ý nghĩa của nó như thế nào ít thấy tài liệu lịch sử hình thành đất Sài Gòn ghi chép đầy đủ.


      Chùa Ngọc Hoàng ở Da kao ngày xưa (Nguồn: AAVH j.c)

Ông bạn tôi không đồng ý với một vài quan điểm của mấy tài liệu viết về vùng đất này. Trang mạng Wiki cho rằng: “Tên gốc của vùng đất Đa Kao là Đất Hộ (đất của hộ hoặc đất do hộ quản lý). Hộ (quartier) là đơn vị hành chính tồn tại vào thời kỳ Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành Vùng Sài Gòn – Chợ Lớn (Région de Saigon – Cholon) vào thời Pháp thuộc; đơn vị này tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Đứng đầu một hộ là hộ trưởng. Đất Hộ được phiên âm thành Dakau trong sách báo, văn bản thời Pháp thuộc. Tên gọi Đa Kao trở nên phổ biến rộng rãi tại Sài Gòn từ thập niên 1950 trở về sau”.

Ở đây có hai nghi vấn cần lưu ý: Thứ nhất, thời kỳ Chợ Lớn – Sài Gòn sáp nhập vào đầu thập niên 1930. Việc chia đơn vị quản lý hành chánh quartier lúc đó tương đương cấp phường ngày nay. Và không thể nói quartier là hộ (đất do hộ quản lý) nên gọi là đất hộ. Thứ hai, Đất Hộ đã có tên từ lâu trên bản đồ Trần Văn Học vẽ vào năm 1815 mặc dù nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu có bổ sung thêm một số tên địa danh dịch ra từ chữ Hán vào giữa thế kỷ 19 trên bản đồ.

Vấn đề tên gọi Dakau do người Pháp phiên âm từ chữ Đất Hộ có thể chấp nhận được. Nhiều văn bản sách vở người Pháp in, xuất bản từ đầu thế kỷ 20 xuất hiện chữ Dakau. Chẳng hạn như chú thích tấm ảnh bưu thiếp Chùa Ngọc Hoàng được ghi rằng: Saigon – Pagoda de Dakau (Chùa Đa Kao). Ngôi chùa này còn có tên là Phước Hải Tự. Theo Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa, chùa tạo lập lối 1905 và hoàn thành năm 1906. Như vậy khó có thể đồng ý với nhận định tên gọi Đa Kao xuất hiện phổ biến rộng rãi từ thập niên 1950 trở về sau.


Đường Trần Quang Khải thuộc vùng Dakao năm 1965 (Nguồn: Manhhaiflickr)

Theo ông bạn lớn tuổi của tôi người ở Xóm Chùa thì tên Đa Kao xuất hiện từ lâu khi gia đình cha mẹ anh di cư từ miền Bắc vào Sài Gòn năm 1944 để tránh nạn đói. Nhà ông ở trong một con hẻm trên đường Trần Quang Khải gần đền thờ Tây Hồ Phan Chu Trinh. Hình dáng ngôi đền trông như cái đình có mái đao ngói đỏ. Nên ông chỉ nghe gọi tên Xóm Chùa. Tất nhiên đây là cách gọi của người dân sống trong khu vực tập trung vài ba ngôi chùa, đền thờ; gọi như vậy cho thêm hình tượng. Nhưng hình tượng nhất trong xóm này lại là nhiều đám du côn tụ họp từ những khu nhà sàn gần đầu kênh Nhiêu Lộc. Thanh niên lạ mặt không dám vào đây vì sợ ngó điêu là đánh. Cái xóm “hiền lành” nhất như thế lại sống trong Xóm Chùa, lại thêm ban nhạc “Mad Dogs”, nghe cái tên cũng thấy nổi loạn rồi, đàn ca hát xướng vang rền cả xóm!

Ông kể, nhà tôi ở Đa Kao nhưng đi học ở Tân Định gần đó. Trường tiểu học Huỳnh Thị Ngà khai trương năm 1947 và đó cũng là năm tôi vào học lớp nhì. Đây là một trường tư thục nhưng có kỷ luật nghiêm khắc nên bố mẹ dẫn tôi đến ghi danh. Từ nhà đến trường chừng chưa đầy cây số, đi bộ cũng tới, vậy mà ba tôi dẫn tôi đi xe điện leng keng cho biết với người ta. Đón xe ở trạm Đa Kao, xuống trạm Tân Định, lại đi bộ vào trường. Nhắc đến bến xe điện, theo tôi tìm hiểu tuyến đường xe điện: Sài Gòn – Hóc Môn đi qua các trạm Bà Chiểu – Đa Kao – Tân Định khánh thành từ cuối thế kỷ 19. Như vậy xem ra địa danh Đa Kao đã xuất hiện vào thời gian này chứ mấy ai còn gọi Đất Hộ?

Riêng Chợ Đất Hộ mang tên này khi nào thì không có tài liệu để kiểm chứng. Ông bạn tôi với trí nhớ thuở còn học sinh tiểu học có thể không chính xác, nhưng thuở đó ông vẫn nghe người trong xóm gọi chợ Đa Kao mặc dù ngôi chợ này chỉ là chợ chồm hổm tự nhóm, dân chúng mua bán tụ tập lại thành hàng sạp lộ thiên. Mỗi chiều sau khi tan chợ, rác rến xả đầy, hai ba người phu quét dọn hì hục kéo lê cán chổi dài gom rác lại thành từng đống rồi dùng cào vun lên xe bò chở rác kéo ra bãi đổ ở phía đường Mayer tức Hiền Vương.


Cầu DaKao Người Việt gọi là cầu Bông nối liền hai vùng đất DaKao và Thị Nghè vào thập niên 1920 (Ảnh: Tư Liệu)

Một tài liệu ghi chép trong cuốn Bến Nghé xưa của nhà văn Sơn Nam nhắc đến vụ toan tính đánh chiếm Sài Gòn vào tháng 1-1885 do ông Nguyễn Văn Bường, tự nguyên soái Tống cư ngụ tại Cầu Kiệu. “Nguyễn Văn Bường chuẩn bị xong người và khí giới để đột nhập vào chợ Tân Định và Phú Nhuận hòng chiếm và phá huỷ vài công sở”. Nhưng cuộc nổi dậy bất thành, Nguyễn Văn Bường cùng vài ba lãnh đạo bị bắt và kết án chung thân đày ra Côn Đảo”. Sau đó mấy tháng, lại có tin dân chúng Hóc Môn nổi dậy. “Có tờ lịch ném vào chợ Hóc Môn ghi rõ thời điểm ấy. Lại có tin loan truyền đúng rằm tháng 3, vào ban đêm, nghĩa quân tấn công thẳng vào Sài Gòn. Mặc dầu không sợ cho lắm nhưng bọn thương gia Pháp ở Đất Hộ cũng thức chờ đối phó, ngủ với cây súng ở đầu giường”.

Đất Hộ nhắc tới trong thời điểm ấy (1885) là điều đương nhiên cũng như chợ Đất Hộ cũng chỉ là cái tên gọi của dân chúng chứ không nằm trong các chợ được quy hoạch có tên quản lý trong một thành phố như chợ Tân Định (trước là chợ Phú Hoà) sau này khi xây xong thành một tác phẩm kiến trúc đẹp thu hút dân chúng sống trong vùng Tân Định – Đa Kao. Những ngôi chợ nhỏ gần đấy như Xã Tài (Phú Nhuận), Đất Hộ (Đa Kao) ít nghe nhắc đến hơn nên người Sài Gòn sinh ở quận khác có nghe cứ tưởng chợ ở tỉnh nào.

Thành phố Sài Gòn mở rộng nhanh chóng vào thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, chợ búa cũng theo đó mà hình thành và cất mới phục vụ cho nhu cầu dân sinh từ khắp nơi đổ về mảnh đất Sài Gòn hoa lệ. Chợ Đất Hộ hay Đa Kao từ chợ chồm hổm lộ thiên được dựng lên có nhà lồng, dãy sạp hẳn hoi mua bán cho đến ngày nay. Và hàng quán, tiệm ăn mọc lên khắp mặt tiền đường phố.

TNhttps://baotreonline.com/van-hoc/viet-nam-ngay-cu/nho-da-kao.baotre

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2025

XIN LỔI TINH YÊU - Thơ Ngọc Ánh


XIN LỔI TINH YÊU

Vào đời nhau trong buổi đầu hò hẹn
Anh thì thầm câu nói đã yêu em
Trong bồi hồi xao xuyến ngỡ ngàng thêm
Nên không thể tin ngay lời anh hứa
Gắn kết nhau mổi đầu thêm một nửa
Bước lặng thầm vào ngưởng cửa tình yêu
Càng đi xa em càng thấy yêu nhiều
Thế mới hiểu tình yêu này chân thật
Những ngờ vực ngày đầu tiên đã mất
Mình lặng yêu trong sâu thẳm của ái ân
Lòng tuy xa nhưng tình cảm thật gần
Ở đâu đó trong lòng anh, em hiểu
Em vẫn còn bao nhiêu là câu hỏi
Tại vì sao ta lại đến cùng nhau?
Nhìn lại xem mái tóc đã phai màu
Em không muốn phiêu lưu vào lối cấm
Trời hôm nay giọt mưa phùn lấm tấm
Lòng dạt dào đọc lại mấy vần thơ
Em hoang mang một sự thật không ngờ

Anh từ chối một tình yêu ai đó!. 

Đến với em như thiên đường mở ngõ
Vậy mà em lại ngờ vực tình anh!.
Thì ra đây là sự thật rành rành
Nhưng em cứ vô tình nên hời dổi
Em muốn tỏ cùng anh lời...xin lổi
Tình yêu!..
Ngọc Ánh nguoideplongyen


Mời Xem :





Tạp Ghi và Phiếm Luận: LANG là CHÀNG (Đỗ Chiêu Đức)

 Tạp Ghi và Phiếm Luận :

                     LANG là CHÀNG 


      CHÀNG chữ Nho là LANG 郎. Như hai câu trong bài ngũ ngôn trường thiên "Trường Can Hành" của Thi Tiên Lý Bạch:

    郎 騎 竹 馬 來,     LANG kỵ trúc mã lai,
    繞 床 弄 青 梅.     Nhiễu sàng lộng thanh mai.
      Có nghĩa :
                   CHÀNG cưởi ngựa tre đến,
                   Quanh giếng ghẹo mai xanh.    

      Đó là lời của người vợ trẻ nói về chồng mình khi hai đứa cùng lớn lên ở xứ Trường Can từ thuở nhỏ, họ là THANH MAI TRÚC MÃ 青 梅 竹 馬 của nhau, nên LANG là CHÀNG, là CHỒNG; Vì thế TÂN LANG 新 郎 là "Chồng mới", là "Chú rể mới". Trong bài hát nói (Ca trù) "Tuổi già cưới Vợ hầu" của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ có hai câu chữ Nho như sau:

新 娘 欲 問 郎 年 幾,  TÂN NƯƠNG dục vấn LANG niên kỷ,
五 十 年 前 二 十 三.   Ngũ thập niên tiền nhị thập tam !
      Có nghĩa :     
                      Cô dâu muốn hỏi CHÀNG bao nả ?
                      Năm chục năm xưa hai mươi ba !
   


            - Nếu cô dâu mới muốn hỏi CHÀNG bao nhiêu tuổi, thì xin đáp rằng...
            - Năm mươi năm trước mới có hai mươi ba tuổi thôi! Có nghĩa, trước mắt thì CHÀNG RỂ MỚI nầy đã "Bảy mươi ba tuổi" rồi! Chớ không còn là...

      THIẾU NIÊN LANG 少 年 郎 là "Chàng Tuổi Trẻ" như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm là:

                   CHÀNG TUỔI TRẺ vốn dòng hào kiệt,
                   Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
     Với hình tượng...
                         Áo CHÀNG đỏ tựa ráng pha,
                   Ngựa CHÀNG sắc trắng như là tuyết in.

     và đầy hào khí của một CHÀNG TRAI trong thời loạn...

                     Giã nhà đeo bức chiến bào,
                   Thét roi cầu Vị ào ào gió thu !
      


     Nên...
         CHÀNG là LANG là từ để gọi người yêu, người tình, người hôn phối... một cách âu yếm thân mật, như TÌNH LANG 情 郎, PHU LANG 夫 郎, LANG QUÂN 郎 君... Trong bài "Bẽn Lẽn" của nhà thơ Hàn Mặc Tử ta đọc được các câu:
               ...Vô tình để gió hôn lên má
                  Bẽn lẽn làm sao, lúc nửa đêm !
                  Em sợ LANG QUÂN em biết được
                  Nghi ngờ tới cái tiết trinh em...

      LANG là CHÀNG, là nam giới, là con trai. Có tài hoa giỏi giắn thì gọi là TÀI LANG 才 郎, ngu si đần độn thì gọi là XUẨN LANG 蠢 郎. Trắng trẻo đẹp trai thì gọi là NGỌC LANG 玉 郎. Chàng rể mới thì gọi là TÂN LANG 新 郎; chàng rể phụ thì gọi là BẠN LANG 伴 郎. Ngoài ra, nhà đông anh em thì anh cả là ĐẠI LANG 大 郎, em thứ là NHỊ LANG 二 郎, kế nữa là TAM LANG 三 郎, TỨ LANG 四 郎, NGŨ LANG 五 郎...

      Xét theo Lục Thư thì LANG 郎 là chữ thuộc dạng Hài thanh và Hội Ý có diễn tiến hình thành chữ viết như sau:

     Kim Văn Đại Triện    Tiểu Triện                       Lệ Thư           Khải Thư
  
Ta thấy : 
         Chữ LANG 郎 được ghép bởi bộ LƯƠNG 良 là Tốt, là Hiền, là Giỏi bên trái chỉ ÂM, và bộ ẤP 邑 (阝) là Thôn, là Xóm, là Làng bên phải chỉ Ý. Nên theo Hài Thanh thì đọc theo âm LƯƠNG trại ra thành âm LANG, theo Hội Ý thì là người có tài, có chức sắc trong làng xóm, nên LANG 郎 là một chức quan trong triều đình xưa, như:
       THỊ LANG 侍 郎 Vốn là một cận thần thị vệ trong cung từ đời Hán. Sau đời Đông Hán là thuộc quan (phụ tá) của Thượng Thư. Có diễn tiến như sau: Mới nhậm chức gọi là LANG TRUNG 郎 中, khi tròn một năm thì gọi là THƯỢNG THƯ LANG 尚 書 郎, đủ ba năm thì mới được gọi là THỊ LANG. Sau đời Đường THỊ LANG 侍 郎 là chức phó của các Trung Thư, Thượng Thư... tương đương như chức Thứ Trưởng ngày nay của ta vậy. Đặc biệt là nghề thầy thuốc chửa bệnh và cứu nhân độ thế, nên được người đời xưng tụng như là một chức sắc LANG TRUNG, nên mới hình thành từ LANG TRUNG 郎 中 để gọi một cách tôn xưng các thầy thuốc là vì thế.  Sang đến Việt Nam ta thì bà con gọi cho gọn lại là THẦY LANG; còn những tay thầy thuốc dỏm không có đạo đức, chỉ biết có tiền thì được bà con gọi là "TÊN LANG BĂM" !
       HIỆU THƯ LANG 校 書 郎 Quan chức có từ đời Đông Hán, chuyên hiệu đính sách vở văn chương thư tịch, thi từ ca phú... Đời Đường gọi là BÍ THƯ TỈNH 秘 書 省 hay BÍ THƯ LANG 秘 書 郎 là quan chức thuộc hàng Cửu phẩm.
       VIÊN NGOẠI LANG 員 外 郎 cũng là một quan chức thời cổ đại, vốn dùng để chỉ các quan viên nằm ngoài chính ngạch. Vào đời Tùy gồm 24 ty của Thượng Thư Tỉnh đều có một VIÊN NGOẠI LANG là Thứ trưởng quan; tương đương với Phó Ty Trưởng hiện nay. LANG TRUNG là Chính Ty, VIÊN NGOẠI LANG là Phó Ty. Về sau, Viên Ngoại 員 外 chỉ còn  là một chức hàm cho những nhà giàu chứ không có thực quyền và bổng lộc gì cả. Như Vương Viên Ngoại cha của Thúy Kiều và Thúy Vân vậy:
                      Có nhà VIÊN NGOẠI họ Vương,
                Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.
       Nhớ khoảng năm 1964, tuần báo "Tin Vịt" ở Sài Gòn có đăng truyện thơ  "Vương Thúy Kiều Tân Thời" có hai câu như sau:
                      Có nhà nghị gật họ Vương,
                 Gia tư thì cũng ruộng vườn xe hơi !
  Còn...
       TỬ VI LANG 紫 微 郎 là tên gọi đặc biệt nên thơ của chức TRUNG THƯ TỈNH 中 書 省, còn gọi là TRUNG THƯ THỊ LANG 中 書 侍 郎 tương đương với chức Hữu Thừa Tướng, chuyên lo văn thư tấu sớ của Hoàng đế nên rất nhàn hạ, rảnh rỗi. Ta hãy đọc bài thơ TỬ VI HOA 紫 薇 花 của Thi Bá Bạch Cư Dị 白 居 易 ở đời Đường khi ông đang giữ chức TỬ VI LANG thì sẽ rõ:
 絲 綸 閣 下 文 書 静,    Ty Luân Các hạ văn thư tịnh,
 鐘 鼓 樓 中 刻 漏 長。    Chung cổ lâu trung khắc lậu trường.
 獨 坐 黄 昏 誰 是 伴,    Độc tọa hoàng hôn thùy thị bạn,
 紫 薇 花 對 紫 微 郎。    Tử vi hoa đối TỬ VI LANG !
                               

     Có nghĩa : 
                    Trong Ty Luân Các văn thư ít,
                    Nhỏ giọt lầu chuông khắc lậu tàn. 
                    Ngơ ngẩn hoàng hôn sầu chiếc bóng,
                    Chỉ... Tử Vi hoa với TỬ VI LANG !

        Đó là các chức quan ngày xưa có chữ LANG là CHÀNG đi kèm, ngoài ra, chữ LANG còn chỉ những nghề nghiệp lương thiện đàng hoàng như : ĐIỀN XÁ LANG 田 舍 郎 để chỉ các chàng làm nghề nông, BỔ TRÓC LANG 捕 捉 郎 là các chàng chuyên đánh bắt cá tôm, TRẠO THUYỀN LANG 棹 船 郎 là các chàng làm nghề chèo thuyền, chèo đò hay sống trên sông nước... như bài từ Hoán Khê Sa 浣 溪 沙 của Tiết Chiêu Uẩn 薛 昭 蕴 ở cuối đời Đường  đầu đời Ngũ Đại:

 紅 蓼 渡 頭 秋 正 雨,    Hồng lạo độ đầu thu chính vũ,
 印 沙 鷗 迹 自 成 行,    Ấn sa âu tích tự thành hàng,
 整 鬟 飄 袖 野 風 香。    Chỉnh hoàn phiêu tụ dã phong hương.
 不 語 含 顰 深 浦 裡,    Bất ngữ hàm tần thâm phố lý,
 幾 回 愁 煞 棹 船 郎,    Kỷ hồi sầu sát TRẠO THUYỀN LANG,
 燕 歸 帆 盡 水 茫 茫。    Yến quy phàm tận thủy mang mang !       
      Có nghĩa :     
                   Hoa súng nở hồng ướt mưa thu,
                   Vịt trời xa tít tận mây mù.
                   Điểm trang hương phấn hương hoa tỏa,
                   Im lặng chau mày bến sông nhỏ,
                   Nát lòng mấy độ GÀ CHÈO ĐÒ,
                  Đối người đối cảnh ngẩn ngơ,
                  Én bay buồm khuất mịt mờ nước sông !
                              
       TRẠO THUYỀN LANG 棹 船 郎 còn được gọi là LỘNG TRIỀU NHI 弄 潮 兒 là các "chàng giởn sóng", là suốt ngày đùa giởn trên sóng nước, như trong bài "Giang Nam Khúc 江 南 曲" của nhà thơ Lý Ích 李 益 đời Đường:   

         嫁 得 瞿 塘 賈,   Giá đắc Cù Đường cổ
         朝 朝 誤 妾 期。   Triêu triêu ngộ thiếp kỳ
         早 知 潮 有 信,   Tảo tri triều hữu tín
         嫁 與 弄 潮 兒。   Giá dữ LỘNG TRIỀU NHI !
     


    Có nghĩa :
         Lấy được chú lái buôn ở xứ Cù Đường, (là một điều may mắn, thường thì các lái buôn nầy rất giàu). Nhưng… ngày nào cũng lỗi hẹn với thiếp cả! (chỉ lo đi tìm lợi nhuận). Nếu sớm biết trước, nước thủy triều lên xuống đúng hẹn, không sai bao giờ. Thì thà trước kia lấy gã chèo đò cho xong !                    
                  
                    Lấy phải Cù Đường thương lái
                    Thường ngày bỏ thiếp nằm co
                    Lớn ròng nước kia đúng hẹn
                    Biết trước, lấy GẢ CHÈO ĐÒ !
         Lục Bát :
                             Ai xui lấy lái Cù Đường
                    Ngày ngày bỏ thiếp sầu thương muộn phiền
                          Đầy vơi dòng nước thường xuyên
                    Phải dè lấy GẢ CHÈO THUYỀN cho xong !

       Như trên đã nói CHÀNG TUỔI TRẺ là THIẾU NIÊN LANG 少 年 郎. Người yêu thì gọi là TÌNH LANG 情 郎; Có tình nghĩa, xem trọng tình cảm thì gọi là HỮU TÌNH LANG 有 情 郎, các chàng đa tình thì gọi là ĐA TÌNH LANG 多 情 郎; còn giở thói Sở Khanh bạc bẽo thì gọi là BẠC TÌNH LANG 薄 情 郎, như tên Sở Khanh trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du nhà ta vậy:
                       BẠC TÌNH nổi tiếng lầu xanh,
                  Một tay chôn biết mấy cành phù dung !
       Nên ông bà ta thường nhắc nhở các cô gái ngây thơ mới lớn hai câu của nữ sĩ Ngư Huyền Cơ 魚 玄 機, một trong "Tứ Đại Nữ Thi Nhân" đời Đường là:

                  易 求 無 價 寶,    Dị cầu vô giá bảo,
                  難 得 有 情 郎。    Nan đắc HỮU TÌNH LANG.
                   

       Có nghĩa :
              - Bảo vật vô giá còn dễ tìm dễ cầu để mà có được, chớ...
              - Các chàng trai chung tình, có tình có nghĩa thì khó mà có được lắm! Cho thấy, từ xưa đến nay các chàng trai, các cánh "nìn-ông"... thường hay có mới nới cũ, bạc tình bạc nghĩa lắm, nhất là ở trong các xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ thì quả thật là "Nan đắc hữu Tình Lang"!...

                      Dễ cầu có được ngàn vàng,
               Khó tìm cho được một chàng thủy chung !

      Trong Văn Học Cổ thì tùy theo họ tên, ta cũng có rất nhiều CHÀNG, như CHÀNG CHU, CHÀNG LƯU, CHÀNG NGƯU, CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ, CHÀNG TIÊU... Ta bắt đầu bằng CHÀNG CHU nhé!
                                                    
      CHÀNG CHU, tức CHU LANG 周 郎 là CHU DU 周 瑜, còn gọi là CHU CÔNG CẨN 周 公 瑾, là người văn võ song toàn; 28 tuổi đã làm Đô Đốc của Đông Ngô. Ông nổi tiếng với trận chiến Xích Bích, lấy ít thắng nhiều đánh tan 83 vạn quân Tào Tháo, hình thành cuộc diện Tam Quốc lúc bấy giờ. Ngoài tài cầm binh và thao lược, Chu Du còn là một nghệ sĩ tài hoa lỗi lạc, giỏi cả cầm kỳ thi họa, nhất là về đàn tranh. Thường có câu: "Khúc hữu ngộ, Chu lang cố 曲 有 誤,周 郎 顧". có nghĩa: Nếu khúc đàn có sai sót, thì chàng Chu sẽ chiếu cố, chỉ điểm cho ngay! Xin mời đọc  lại bài Ngũ ngôn Tứ tuyệt THÍNH TRANH 聽 箏 nổi tiếng của Lý Đoan 李 端 đời Đường sau đây:   
                        
                  鳴 箏 金 粟 柱,      Minh tranh kim túc trụ,
                  素 手 玉 房 前.   Tố thủ ngọc phòng tiền.
                  欲 得 周 郎 顧,   Dục đắc Chu Lang cố,   
                  時 時 誤 拂 絃.      Thời thời ngộ phất huyền.
      Có nghĩa :
                     Thánh thót đùa phím ngọc                         
                     Tay ngà nắn cung mơ                         
                     Muốn chàng Chu chiếu cố                         
                     Thường để lạc phím tơ
       Lục bát :                          
                     Trục vàng phím ngọc vấn vương                          
                     Tay ngà nắn nót cung thương mơ màng                         
                     Muốn chàng chiếu cố ngó ngàng                          
                     Nàng thường để lạc phím đàn cung tơ !
     


        Thường thì đàn, ai cũng muốn đàn cho hay. Nhưng ở đây thì ngược lại, nàng cố ý đàn dở, đàn sai để được chàng dòm ngó đến. Cái hay của bài thơ là ở chỗ nầy, nêu bật được cái tâm lý rất thực tế, rất nhân bản của phái nữ khi muốn được người mình yêu mến để ý đến. Nàng đã không màng đến thể diện, tự ái nữa, không cần phải đàn hay để được khen, mà chỉ muốn đàn sai để được chàng đến chiếu cố, thân cận cầm tay để chỉ điểm cho. Lý Đoan đã rất tâm lý khi làm bài thơ nầy. 
        Trong bài hát nói HỎI GIÓ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, phần hai câu thơ chữ Hán cũng có nhắc đến CHU LANG :

 Thử thị Đà Giang, phi Xích Bích,     此 是 沱 江 非 赤 壁,
 Dã vô Gia Cát dữ CHU LANG.        也 無 諸 葛 與 周 郎。
Có nghĩa : 
         - Nơi đây là sông Đà Giang chớ không phải là sông Xích Bích.
         - Chẳng có Gia Cát Lượng mà cũng chẳng có Chàng Chu.    
                   

      LƯU LANG là CHÀNG LƯU, tức LƯU VŨ TÍCH 劉 禹 錫 (772-842), tự là Mộng Đắc, người đất Lạc Dương Hà Nam, tổ tiên từ Định Châu Hà Bắc di dời xuống miền nam. Ông là thi nhân nổi tiếng và tiêu biểu của đời Trung Đường, được đời sau xưng tụng là Thi Hào với các tính chất hào phóng trong thi ca, ngoài ra, ông còn nổi tiếng với các bài tản văn, như bài "Lậu Thất Minh 陋 室 銘" với các câu văn bất hủ như: 
         
   Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh;   
       山 不 在 高,有 仙 則 名;
   Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh.    
      水 不 在 深,有 龍 則 靈。
   Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh....     
      斯 是 陋 室,惟 吾 德 馨...
Có nghĩa :
          Núi chẳng tại cao, có tiên thì nổi tiếng;
          Nước chẳng tại sâu, có rồng thì linh thiêng.
          Đây chỉ là căn nhà thô lậu, nhưng được thơm lên vì cái đức của ta...

       Năm Nguyên Hòa thứ chín (815), Lưu Vũ Tích cùng Liễu Tông Nguyên đều được triệu hồi Trường An chờ phục chức. Thấy cảnh bát nháo của chính sự lúc bấy giờ, nhân dạo chơi ở Huyền Đô Quán, một đạo quán nổi tiếng của các đạo sĩ ở kinh thành, ông đã làm bài "Nguyên Hòa Thập Niên Tự Lãng Châu Thừa Chiếu Chí Kinh Hí Tặng Khán Hoa Chư Quân Tử 元 和 十 年 自 朗 州 承 召 至 京 戲 贈 看 花 諸 君 子". có nghĩa: Năm Nguyên Hòa thứ mười phụng chiếu từ Lãng Châu về kinh thành, đùa tặng các bậc quân tử đi xem hoa. (Bài thơ nầy còn có tên đơn giản là "Huyền Đô Quán Đào Hoa 玄 都 觀 桃 花" là Hoa đào ở Huyền Đô Quán) như sau:

紫 陌 紅 塵 拂 面 來,   Tử mạch hồng trần phất diện lai,
無 人 不 道 看 花 回。   Vô nhân bất đạo khán hoa hồi.
玄 都 觀 裏 桃 千 樹,   Huyền Đô Quán lý đào thiên thọ,
盡 是 劉 郎 去 後 栽。   Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài.
  Có nghĩa :
                  Ngổn ngang đường xá bụi nhòa,
                  Kháo nhau cùng đến ngắm hoa chốn này.
                  Huyền Đô ngàn cội đào khai,
                  Đều trồng từ lúc đi đày CHÀNG LƯU.

      Ý của Lưu là mĩa mai cái đám người quyền qúy mới, do a dua nịnh hót mà có được. Bọn người nầy đã vênh váo đi lại khắp đường phố Trường An làm ra vẻ thanh cao như những người đi ngắm hoa về. Nếu chàng Lưu ta còn ở đây thì chưa chắc bọn nầy đã hiện diện mà nghênh ngang đi lại. Ý của Lưu Vũ Tích có hơi trịch thượng và xem thường những người quyền thế mới nầy, nên chi chẳng bao lâu sau, ông lại bị biếm đi làm Thứ Sử Ba Châu.
      Sau nhờ Ngự Sử Trung Thừa Bùi Độ tâu với vua vì Lưu Vũ Tích còn mẹ già, nên được thuyên về làm Thứ Sử Liên Châu. Thời gian này vì tâm trạng buồn khổ cực độ nên Lưu hay đi lại các chùa chiền và cùng nghiên cứu Phật pháp với các nhà sư. Năm Nguyên Hòa thứ 14, mẹ mất, phải về Lạc Dương thọ tang. Đường Mục Tông Trường Khánh nguyên niên (821) lại thuyên làm Thứ Sử Qùy Châu. Năm Trường Khánh thứ 4 đổi về làm Thứ Sử Hòa Châu. Mùa xuân năm Bảo Lịch thứ 2 đời Đường Kính Tông (826) lại được triệu về Lạc Dương. Năm Đại Hòa thứ 2 đời Đường Văn Tông(828)Mười bốn năn sau, một lần nữa ghé thăm lại Huyền Đô Quán, lại làm bài "Tái Du Huyền Đô Quán 再 游 玄 都 觀" để châm biếm và cười cợt những kẻ quyền qúy đã hết  thời:

 百 畝 庭 中 半 是 苔,   Bách mẫu đình trung bán thị đài,
 桃 花 淨 盡 菜 花 開。   Đào hoa tịnh tận thái hoa khai.
 種 桃 道 士 歸 何 處,   Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ ?
 前 度 劉 郎 今 又 來。   Tiền độ Lưu Lang kim hựu lai !
     Có nghĩa :
                   Trong sân nửa mẫu rêu nhòa,
                   Đào thì rụng sạch cải đà nở hoa.
                   Trồng đào đạo sĩ đâu ta ?
                   Chàng Lưu ngày trước lại qua chốn nầy !                    
   
       Lúc bấy giờ, những phe mhóm đối lập đã tan rả, như hoa đào đã rụng hết. Người cầm đầu là Võ Nguyên Hành cũng đã chết, như đạo sĩ trồng đào đã bỏ đi. Lưu tự hào là mình vẫn còn có ngày phục chức trở lại, như Lưu Thần Nguyễn Triêu được trở lại Thiên Thai lần nữa vậy (Chàng Lưu ngày trước lại về đây!). Vì cùng là họ Lưu, nên Lưu Vũ Tích ví mình như là Lưu Thần đã từng sống nơi cảnh Thiên Thai ngày trước, với cuộc sống thần tiên thanh cao nhàn nhã, chứ không vướng bận lợi danh chạy theo những thị hiếu thấp hèn của  người đời như những kẻ tầm thường khác.
     

      Nói đến CHÀNG người ta cũng nghĩ ngay đến CHÀNG NGƯU và Ả Chức, tức Ngưu Lang 牛 郎 và Chức Nữ 織 女. vốn là hai vì sao ở hai đầu sông Ngân Hà trên trời. Tương truyền Chức Nữ là cháu gái của Ngọc Hoàng giỏi nghề dệt vải, gả cho Ngưu Lang là chàng chăn trâu. Vì hai vợ chồng quá yêu nhau nên chểnh mảng công việc. Ngọc Hoàng giận mới đày hai người ở hai bên bờ sông Ngân Hà, mỗi năm chỉ cho đàn ô thước bắt cầu để gặp nhau một lần vào đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch, tục gọi là đêm Thất Tịch. Nên Chàng Ngưu Ả Chức hay Ngưu Lang Chức Nữ 牛 郎 織 女 gì đều chỉ tình yêu trai gái hay tình nghĩa vợ chồng với nhau. Như trong truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính diễn tả tình duyên trắc trở giữa Thiện Sĩ và Thị Kính vậy:

                       Thiệt công ô thước bắc cầu,
             CHÀNG NGƯU Ả Chức giã nhau từ rày.

       Hay như trong Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu tả mối tình của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga:

                       Hữu tình chi bấy NGƯU LANG,
                  Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.                                                

     
      CHÀNG NGƯU là nhân vật thần thoại không có thật, chứ CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ là những người có thật trong đời sống.

       CHÀNG KHUÔNG tức Khuông Hành 匡 衡, tự là Trĩ Khuê, người đất Đông Hải huyện Quận Thừa, là một học giả nổi tiếng đời Tây Hán, làm quan đến chức Thừa Tướng. Ông xuất thân là con nhà nông nghèo khổ, gia cảnh bần hàn, phải đi làm công để đổi lấy sách học. Ông lại nổi tiếng và để đời với việc xin ông hàng xóm cho khoét một cái lổ trên vách (gọi là TẠC BÍCH 鑿 壁) lúc đêm về để nhờ vào ánh đèn sáng xuyên qua lổ hổng đó mà đọc sách học hành, như cụ Nguyễn Công Trứ đã tả trong bài Hàn Nho Phong Vị Phú là:

        Cần nghiệp Nho khi TẠC BÍCH TỤ HUỲNH,
       Thuở trước CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ.

                  TẠC BÍCH TỤ HUỲNH  鑿 壁 聚 螢

      CHÀNG VŨ tức là Xa Dận, tự là VŨ TỬ. Theo Tấn Thư quyển 83 Xa Dận Truyện. Ông người đất Nam Bình, từ nhỏ đã hiếu học, nhưng nhà nghèo, ban ngày phải đi làm lụng kiếm sống, ban đêm không có tiền mua dầu thắp đèn để học. Nhân những tháng mùa hè có nhiều đom đóm, ông bèn đuổi bắt tập hợp chúng lại gói trong vải mỏng để lấy ánh sáng (gọi là TỤ HUỲNH 聚 螢) mà đọc sách, sau cũng trở thành một văn học gia nổi tiếng đời Tấn.
      Nói chung, CHÀNG KHUÔNG CHÀNG VŨ gì đều chỉ những người nghèo mà hiếu học.
                           
      Cuối cùng ta có CHÀNG TIÊU là TIÊU LANG 蕭 郎, là Phiếm chỉ Đại từ thường dùng để chỉ người tình hoặc ý trung nhân theo tích sau đây:
      Theo Toàn Đường Thi Thoại: Thi nhân đời Đường Nguyên Hòa là Tú Tài Thôi Giao 崔 郊, thương một người nô tì tài sắc vẹn toàn của nhà bà cô. Sau vì nghèo, bà cô bán nô tì đó cho Liên Soái làm tì thiếp. Giao cứ thơ thẩn trước cửa Liên Soái mà không dám vào. Nhân tiết Hàn Thực người tì thiếp đi ra ngoài gặp gỡ Thôi Giao bên rặng liễu. Giao cảm xúc làm tặng nàng bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng sau đây:

 公 子 王 孫 逐 後 塵,   Công tử vương tôn trục hậu trần,
 綠 珠 垂 淚 濕 羅 巾。   Lục Châu thùy lệ thấp la cân.
 侯 門 一 入 深 如 海,   Hầu môn nhất nhập thâm như hải,
 從 此 蕭 郎 是 路 人。   Tòng thử TIÊU LANG thị lộ nhân.
Có nghĩa :
                Công tử vương tôn ruổi bụi trần,
                Lục Châu lệ nhỏ ướt đầm khăn.
                Cửa hầu tựa bể sâu thăm thẳm,
                Từ đó CHÀNG TIÊU kẻ trước sân.
Lục bát :
               Vương tôn công tử theo sau,
               Lục Châu nhỏ lệ ướt bao khăn là.
               Cửa hầu sâu tợ biển xa,
               CHÀNG TIÊU từ đó như là người dưng.
          

       Có người mách lẻo, định tâng công, đem bài thơ nầy cho Liên Soái xem. Liên Soái cho mời Thôi Giao vào dinh. Mọi người đều lo sợ cho chàng. Không ngờ Liên Soái cũng thuộc nòi tình, tuy rất yêu thương người tì thiếp tài hoa, nhưng thấy hai người vẫn còn yêu nhau tha thiết, nên trả nàng lại cho Thôi Giao và còn tặng cho bốn ngàn nén bạc về quê để... yêu nhau! Tạo nên một giai thoại trong làng thơ lúc bấy giờ.

      Trong Truyện Kiều, lúc Kim Kiều tái hợp, cụ Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy khi Thúy Kiều cứ một mực khăng khăng không chịu thành thân với Kim Trọng:

                ...Có điều chi nữa mà ngờ,
         Khách qua đường để hững hờ CHÀNG TIÊU !?
               Nghe chàng nói đã hết điều,
       Hai thân thì cũng quyết theo một bài...
Nên cuối cùng thì cũng ...
                         Cùng nhau giao bái một nhà,
                    Lễ đà đủ lễ, đôi đà đủ đôi.
                         Động phòng dìu dặc chén mồi,
                   Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa...

      "Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa !" Thật cảm khái, thật ngậm ngùi, mà cũng thật dễ làm xúc động lòng người!...
                  
                
       Từ LANG là CHÀNG cuối cùng của bài viết nầy không phải là một CHÀNG, mà là một NÀNG ?! Đó là từ NỮ LANG 女 郎...              
       NỮ LANG 女 郎 là từ dùng để chỉ một thiếu nữ trẻ, một cô gái còn trẻ trung. Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, từ NỮ LANG là một cách gọi tôn xưng các cô gái lên ngang hàng với các chàng trai đồng trang lứa, như...

                  NÀNG là một NỮ LANG tài mạo song toàn !...

       Hẹn bài viết tới :
                                NƯƠNG là NÀNG.

                                                                       杜 紹 德
                                                                   Đỗ Chiêu Đức
* Mời bấm vào link dưới đây để nghe bản nhạc
  "CHÀNG là AI ?" của Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết :

    https://www.youtube.com/watch?v=wOL0U0e7HRs 


Ảnh của Tiêm Ký Ức -Thiếu nữ Nam Kỳ 1900


Mờ i Xem Lại :

Tạp Ghi và Phiếm Luận : Chữ ĐỒ (Đỗ Chiêu Đức)

KÍNH MỜI XEM THƠ TIỂU VŨ VI và BÀI HỒ NGUYỄN, NGUYỄN HUY KHÔI , HỌA

1./ MỘNG SUM VẦY Đầu non tuyết phủ trắng rừng cây Lạnh giá sương hàn quyện khói mây Anh ngóng gió đông sầu chất ngất Em nhìn trăng khuyết lệ...