Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan - ST : Hồ Nguyễn

                 
 Ý NGHĨA NGÀY LỄ VU LAN (RẰM THÁNG 7)
         Rằm Tháng Bảy (7) Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng còn là ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày Lễ Vu Lan. Vậy lễ này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không? Và từ đâu có xuất xứ của hai tiếng “Vu Lan”?
        Ngày rằm tháng 7 còn gọi là ngày “Xá Tội Vong Nhân” để cúng các chúng sinh không nhà, không cửa. Các ngôi chùa vào ngày này sẽ mở khóa lễ phá ngục cho chúng sinh và tổ chức lễ Vu Lan (ngày con báo hiếu cha mẹ). Sau đây là truyền thuyết ngày rằm tháng 7.
        Ngày xưa, La Bộc là con ông Phổ Tướng và bà Thanh Đề. La Bộc phải đi buôn ở tỉnh Kiên Liên để phụ cho gia đình đang túng thiếu. Sau khi đã giàu có, La Bộc cho người về quê biếu tiền mẹ già.  Bà mẹ già lại ăn hết số tiền đó, lại sai người giết chó làm nhân bánh biếu sư. Khi La Bộc trở về thì bà mẹ nói dối rằng số tiền mà La Bộc gởi bà đã gửi tiền làm quà tặng cho các chùa. Sau đó, chẳng bao lâu thì bà mẹ của La Bộc chết.
        La Bộc đi qua nước Ki Đô ở nơi Phật ở. La Bộc xin ở lại tu luyện. Phật thương tình ưng thuận và sai thầy Kha Na cắt tóc cho ông, đặt tên La Bộc là Mục Liên và tu ở chùa Lã Bí trong rừng Quýt Sơn.
        Nếu muốn đến được rừng Quýt Sơn, người ta phải đi qua một ngôi chùa tên là Thiên Giai, là nơi có những âm hồn nghe kinh. Mục Liên chỉ nhận ra người cha mà không thấy mẹ mình. Mục Liên khóc, Phật hiện lên bảo cho biết là bà Thanh Đề khi còn sống làm nhiều điều gian ác nên bị đày xuống ngục A Tỳ rồi. Nghe vậy, Mục Liên liền lặn lội xuống ngục tìm mẹ. Khi tới ngục Mục Liên thấy mẹ mình đang bị nhiều cực hình.
       Mục Liên thấy mẹ cực khổ như vậy rất đổi đau lòng, về nói lại cho Đức Phật biết. Phật dạy phải nhờ tới uy lực của mười phương Chúng Tăng, để những bà mẹ đang đau khổ đều được giải thoát. Ngày rằm tháng 7 là ngày tự tứ của mười phương Tăng. Mục Liên làm đúng lời phật và giải thoát được mẹ khỏi cực hình.
         Ngày rằm tháng 7 bên Trung Quốc còn được gọi là tết Trung Nguyên, có tục lệ cúng tổ tiên. Theo dân gian thì trong ngày này ở âm phủ khảo chiếu sổ sách để đại xá cho các linh hồn ma quỷ cô đơn ngoài đồng nội.
         Do đó, dựa vào tích ấy ngày rằm tháng 7 các chùa đều làm lễ cho các tội nhân.  Noi gương hiếu thuận của Mục Liên ngày rằm tháng 7 trở thành ngày tết Vu Lan, con báo ân cha mẹ.
         Một truyền thuyết khác có kể rằng: Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ mà tìm thì thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tì. Thân hình của bà tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ.
         Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần thông.
        "Này Mục Kiền Liên, mẹ của ông do lòng tham lam độc ác đã tạo ra tội lỗi nặng nề trong nhiều kiếp, nay sinh trong ác đạo làm loài ngạ quỉ, nên không thể một mình ông cứu độ được. Dẫu lòng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng tăng trong mười phương, "thập phương chúng hội" đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải thoát. Ta sẽ chỉ cho ông phương pháp cứu độ mẹ ông.
Đức Phật dạy:
         "Này Mục Kiền Liên, ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ của chư tăng khắp nơi, sau ba tháng an cư kiết hạ, các chư tăng tiến bộ rất nhiều trên đường tu học. Nhân ngày ấy, ông hãy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông.
        "Ông hãy sắm sửa đủ các món ăn chay, năm thứ trái cây, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng chiếu chăn, mùng mền quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay... Tóm lại, là đủ bốn món cúng dường quí báu trên đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị đại đức trong mười phương, hoặc những vị thiền định trong núi rừng chứng được bốn quả thánh, hoặc các vị bồ tát thị hiện làm thầy tỳ kheo... Ông phải thành tâm kính lễ trai tăng cúng dường và thỉnh cầu chư tăng chú nguyện cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, nhưng có nhiều người khiêng thì dời đi đâu cũng được".


          Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh.
          Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không? Không! Ðây là hai lễ cúng khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại khái như sau: Cứ theo “Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh” mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ.
         Quỷ đói nói: ”Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên”. A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi là “Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là “thả quỷ miệng lửa”, về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành “tha tội cho tất cả những người chết”. Vì vậy, ngày nay mới có câu: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.
          Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên, một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông Thái văn Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête des Trépassés) là một. Còn lễ cúng cô hồn (fête des âmes errantes) và lễ xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính là một thì ông lại xem là hai (Xem: Les fêtes traditionnelles Vietnamiennes, B.S.E.I., t. XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây, hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan là để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết (Chúng tôi nhấn mạnh – HT) không còn phải đọa cảnh khổ nữa (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795, mục Vu Lan bồn). Nhưng đây không phải là “những người đã chết”nói chung, vì như đã biết, đó chỉ là cha mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi.
         Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn với lễ báo hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là dạng tắt của Vu Lan bồn. Nhưng Vu Lan bồn là gì? Sau đây là lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi: “Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ chữ Sanscrit Ullabana, là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều điều ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cõi sống rất khổ gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ hình cho họ là bị treo ngược (Sđd, tr. 795). Chúng tôi sẽ dựa vào lời giảng này mà tìm hiểu về xuất xứ của mấy tiếng “Vu Lan” và “Vu Lan bồn”. Lời giảng này có bốn điểm sai mà điểm sai thứ nhất thì chúng tôi vừa mới chỉ ra ở những dòng cuối của đoạn trên.
          Sau đây là điểm sai thứ hai: Nói bồn là cái chậu đựng thức ăn thì không đúng vì bồn chỉ là một yếu tố phiên âm (sẽ phân tích rõ ở phần sau) mà thôi. Nói rằng đó là “cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7” thì lại sai theo một kiểu khác nữa. Chậu là “đồ dùng thường làm bằng sành sứ hoặc kim loại, miệng rộng, lòng nông, dùng để đựng nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây v.v…” (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ. Thật ra, Phật đã dạy Mục Liên như sau:
                   “Phải toan sắm sửa chớ chầ,y
Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm nệm lót,
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu.
Món ăn tinh sạch báu mầu,
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng”.
                           (Diễn ca kinh Vu Lan bồn)
          Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng trong dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt … mà thôi. Còn thức ăn thì phải “tinh sạch báu mầu, đựng trong bình bát” đàng hoàng lịch sự, chứ có đâu lại đựng trong chậu.
         Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những học giả đã giảng như trên, chẳng hạn Ðoàn Trung Còn trong bộ từ điển lớn về Phật học hoặc Toan Ánh trong bộ sách dày về nếp cũ. Ðây là một cách giảng lệ thuộc vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn, đã giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau: “Nói lấy chậu đựng trăm thức để cúng dường chư Phật” (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư Phật).
Ðiểm sai thứ ba là đã theo cái sai của những người đi trước mà giảng Vu Lan thành” cứu nạn treo ngược”, vì thấy từ điển Trung Hoa giảng Vu Lan bồn là “cứu đảo huyền”. Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng hạn, giảng Vu Lan bồn thành “cứu đảo huyền” là đã mượn hai tiếng “đảo huyền ” trong sách Mạnh Tử. Trong sách này, có cú đoạn “Dân chi duyệt chi do Giải đảo huyền dã” nghĩa là “như giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng vậy “. Chính Từ Nguyên cũng đã giảng” đảo huyền “là sự khốn khổ tột cùng” (khốn khổ chi thậm). Vậy “cứu đảo huyền” không phải là “cứu nạn treo ngược” mà lại là “giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng”. Hai tiếng “đảo huyền” ở đây không còn được hiểu theo nghĩa đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa của chúng trong thành ngữ “đảo huyền chi tế” là tình cảnh khốn khó, chứ không phải là “cảnh bị treo ngược”.
          Ðiểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit “Ullabana” có nghĩa là “cứu nạn treo ngược”. Trước nhất, cần nói rằng từ Sanscrit này đã bị viết sai. Vậy không biết ở đây hai tác giả muốn nói đến danh từ Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đã thấy thì có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây: Ullambana hoặc Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất: Ullambana gồm có ba hình vị: ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi! Từ Sanscrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc treo xuôi gì cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là “cứu nạn treo ngược” được.
          Trở lại ý trên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai trong lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng “Vu Lan”. Vậy đâu là xuất xứ và ý nghĩa đích thực của hai tiếng này? Trước nhất, Vu Lan là dạng nói tắt của “Vu Lan bồn”. Ðây là ba tiếng đã được dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng dạng phiên âm mới là “Vu Lan bồn”, trong đó Vu thay thế cho Ô, lan cho lam và bồn cho bà + n (a). Vì “Vu Lan bồn” chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành “cái chậu đựng thức ăn” như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm là hoàn toàn không đúng.


           Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nói), căn tố động từ lambh và hậu tố ana. Xin nói rõ về từng hình vị: Không giống như trong Ullambana, ở đó nó chỉ sự vận động từ dưới lên. Trong Ullambhana, tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập, thí dụ: chad (che, bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn), đv ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói, buộc), đv un-nah (cởi trói) v.v… Trong những thí dụ trên, ud trở thành uc, ut, un do quy tắc biến âm samdhi. Còn các căn tố động từ thì được ghi bằng chữ in hoa theo truyền thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ lambh là hình thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt … Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến ý nghĩa mà tiền tố và căn tố động từ diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là “Vu Lan bồn”. Vu Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy Vu Lan là sự giải thoát. Xuất xứ của nó là danh từ Sanscrit Ullambhana. Ðây là từ thứ hai trong hai từ mà chúng tôi đã suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa lại có liên quan đến hiện tượng “treo ngược” cả.
          Theo thong lệ, kể từ ngày Rằm tháng 7 cho đến cuối tháng, các Phật tử hay người thờ cúng ông bà, ngày nào cũng đến đọc kinh Vu Lan tại bàn thờ gia đình hay tại chùa, đồng thời ăn chay niệm Phật, làm phúc bố thí, để tưởng nhớ, chú nguyện, và hồi hướng công đức cho cha mẹ ông bà và tất cả những người quá cố khác, kể cả những vong linh mồ côi vất vưởng đó đây (gọi là cô hồn). Trong nửa tháng này, bàn thờ Phật trong nhà lúc nào cũng trưng bày nhang đèn, bông hoa và ngũ quả (5 loại trái cây). Theo phong tục, gia chủ tùy nghi chọn riêng một ngày nào đó trong nửa tháng này để làm lễ cúng cô hồn ở phía trước nhà. Cúng xong, họ thường tung gạo, muối, trái cây, bánh kẹo, tiền bạc... - vừa được dùng làm lễ vật để cúng - ra bốn phương với ý nghĩa để các cô hồn hưởng dụng.


           Tôn giáo Cao Đài cũng thiết Đại lễ cúng Đàn tại Tòa Thánh Tây Ninh, các Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu các nơi trong nước và hải ngoại để kỷ niệm ngày lễ lớn trên gọi là Lễ Trung Ngươn Rằm Tháng Bảy vào đúng ngày Rằm. Nhưng trước ngày lễ lớn đó, vào ngày 14-7 ÂL, sau khi cúng thời xong, đọc kinh Di Lạc, Kinh Cứu Khổ và tụng Kinh Sám Hối rất trang trọng.                                               .           
___________

Tài liệu sưu tầm từ An Chi (Huệ Thiên) & PGVN.net

Hồ Xưa bổ túc thêm, trình bày kỷ thuật và chuyển

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGẪM CHUYỆN ĐỜI - Thơ LAN và Bài Họa Của Các Thi Hửu

NGẪM CHUYỆN ĐỜI. Sáu chục xuân qua, ngẫm lại đời Ngọt bùi, cay đắng.... số mà thôi! Nhà nghèo, cảnh khó nào đâu muốn Phận hẩm, phần hiu vẫn ...