Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Đành bỏ mà đi - Truyện ngắn Thuyên Huy



ĐÀNH BỎ MÀ ĐI
Thuyên Huy
    1.

    Anh tư Lậy bỏ cuốc xuống cái bờ đê ngăn đôi miếng ruộng còi, chừng hai mẩu đất, mướn của ông chủ điền ở Trâm Vàng từ ngày vợ anh, chị Búp, sinh ra thằng Bon, đứa con đầu lòng tới bây giờ vửa hơn bốn tuổi. Nắng giữa trưa nóng cháy người, mặc dù ngoài đổng lúc nào cũng có gió. Kéo cái áo thung rách tả tơi lên lau mồ hôi, ngồi bệt xuống nghỉ tay bên mấy cây bình bác say trái, anh mở mo cau đựng mớ cơm nguội và hai ba con cá khô ra, bốc ăn vội vã để còn kịp làm xong phần đất khô nứt trước khi trời mưa xuống.

    Đám ruộng không tốt, chỉ cấy được hai phần ba, vợ chồng ráng dành dụm chắt chiu, làm thuê làm mướn, từ ngày lấy nhau trên Dầu Tiếng, bỏ về Trà Cao, mướn với giá rẻ, hy vọng có ngày dễ thở hơn. Năm năm rồi, tay chân chai cứng, sớm nắng chiều mưa vẫn không đủ cho ba miệng ăn, bữa no bữa đói, tội nghiệp cho thằng Bon miệt mài uống nước cơm thay sữa. Năm nào thất mùa, dù chủ đất thương tình thông cảm, giảm bớt số lúa trả, nợ vẫn ngập đầu, hẹn lần hẹn lựa. Chị Búp cắn răng cam chịu, phụ chồng đầu tắt mặt tối. Anh Lậy thương vợ xấu số lấy chồng cùng đinh, một thân dãi dầu mưa nắng không từ nặng nhẹ. Chữ nghĩa học lớm người, cha mẹ mất sớm, suốt đời đi chăn trâu, không đầy nắm tay nhưng cũng ráng dạy con tập đánh vần mấy chữ á a, trong ước mơ thấy con đến trường làng một ngày nào đó.

    Cuối mùa gặt, lại mất mùa, lúa đập được không đủ trả, chị Búp dẩn con đón xe đi Trâm Vàng, xin chủ ruộng thương tình cho khất số lúa tới năm sau. Đứng chờ xe lam về Trà Cao, chị Búp mằn mò chục đồng bạc trong túi áo lót, mua cho thằng Bon nửa ổ bánh mì chiều có cá mòi đỏ, chị sung sướng hôn con, ngồi đại xuống lề con đường trải nhựa đen giữa chợ quận mặc thiên hạ lại qua. Thằng Bon nuốt nước miếng ngấu nghiến ăn ngon lành.

    Anh Lậy từ ruộng về, tay xách cái đục tre với vài ba con cá rô nhỏ xíu, thằng Bon chạy lăng xăng ra đón. Anh cho nó con cá lia thia xanh đen, trò chơi duy nhất mà nó có. Khói lam cơn chiều quyện lững lơ trên dăm ba mái tranh lác đác xa xa ngoài đồng vắng. Ở đây, nhà trong ấp gần nhau ít nhất cũng vài bờ đê ruộng. Trời tối, nhìn con nằm ngủ trong cái võng bằng vải bố rách bương, nhìn mái nhà tranh ủ dột, tấm liếp tre che cửa trống trước hụt sau, tiếng chị Búp thở dài nảo nuột không thua gì tiếng ểnh ương gọi mưa trong đêm lạnh anh Lậy trăn trở, xót xa nghe.

    Xuống xe đò tại ngõ vào cổng chánh tòa thánh, anh Lậy ôm cái túi xách bằng dây lác đi trước, chị Búp dắt con theo sau. Cả hai tìm ngay đến văn phòng ông Chánh đầu sư, người giữ nhiệm vụ cai quản cô nhi viện. Thằng Bon ngây ngô chạy nhảy tung tăng trên nền gạch bông đủ màu bóng láng. Hai vợ chồng rưng rưng nước mắt, ký giấy tờ cho con. Ông Chánh đầu sư không cầm được lòng, gỡ cặp mắt kiếng già ra lau ngấn lệ. Thằng Bon theo ba người lớn qua nhà chơi, thấy đám con nít trang lúa đùa giỡn ồn ào, la hét, chạy vào nhập bọn quên hẳn cả cha mẹ. Hai vợ chồng ở lại đó cho tới giờ ăn chiều rồi từ giã ông Chánh đầu sư lặng lẽ bỏ con trốn đi. Thằng Bon chưa biết gì cứ mãi mê vui chơi. Chị Búp khóc vật vã trên chuyến xe chiều về Gò Dầu Hạ. Anh Lậy cắn chặt vành nón vải rác tả tơi, cỏi lòng tan nát.

    Mùa nước tới, đám ruộng vợ chồng anh Lậy không thấy ai làm đất. Cỏ hoang mọc cao đến đầu gối. Cái chòi tranh, mái dột cột xiêu chừng như muốn ngã theo tấm liếp dừa che cửa, đánh qua đánh lại khi trời nổi gió. Dãy mồng tơi úa vàng lặng lẽ phơi mình bên sàn nước ọp ẹp. Anh Lậy không còn ở đó không lâu sau ngày dân ấp bắt đầu gieo mạ. Vợ chồng, hai ba cái túi xách, một vài cái túi mang cùng mấy trăm đồng bạc của bao nhiêu lâu dành dụm, bỏ Trà Cao đi trong một ngày mưa tầm mưa tả. Hàng bình bác say trái ửng vàng chín rộ bên bụi chuối hột buồn thiu, chị Búp kéo tấm ni-lông, nhặt từ bao phân bón nào đó, cất làm áo mưa, che vội vàng trên đầu. Anh Lậy đi sau mặc tình cho nước mưa tuôn xối xả.

    2.

   Xế chiều, mây đen bổng chợt kéo về, làm mặt trời tưởng như hôm nay lặn sớm. Bắt ghế ngồi trước hiên nhà, nhìn ra sân, hàng rào cây sa-bô-chê che khuất đường, nếu không có cái cổng sắt mở rộng chắc ông năm Nhân chẳng thấy được đám xe cộ dập dìu ra chợ mới. Căn biệt thự kín cổng cao tường càng ngày càng quạnh vắng. Đôi lúc ông năm, trước kia làm hiệu trưởng trường tiểu học tỉnh thời Tây rồi thời ông Diệm, nay hưu trí, người quen trong tỉnh thường gọi ông là ông đốc Nhân muốn bàn với vợ, bà đốc Nhân, người vui tính, phúc hậu, thường hay giúp bà con chòm xóm, kiếm bậy đứa con nuôi vể ở cho vui tuổi già. Ông bà đốc Nhân có ba người con, hai anh trai lớn đi du học bên Pháp rồi lập nghiệp luôn bến đó, cô con gái út lấy chồng giàu có dưới Long Xuyên, mỗi năm về thăm một lần trong dịp tết. Đi lên nhà trên đi xuống nhà dưới, đâu đó trống trải, có hôm cơm nước cũng chẳng cần ăn. Chiều chiều hai ông bà không biết làm gì khác hơn là ngồi ngoài sân nhìn trời hiu quạnh.

    Sau tết ta, ông bà đốc Nhân, trên đường đi cúng lễ chùa trong Trí huệ cung về, ghé vào cô nhi viện, gặp ông Chánh đầu sư hỏi thăm chuyện xin con nuôi. Thằng Bon bây giờ được sáu tuổi, đứng xớ rớ ngoài sân một mình, lấm lét nhìn. Ông bà tự dưng thấy thằng nhỏ tội nghiệp, trông nó cũng dễ thương nên ngỏ ý với ông Chánh đầu sư muốn nhận nó. Ông Chánh đầu sư kêu thằng Bon lại, đứng gần ông bà khoanh tay cúi đầu chào, rồi cho hai người biết sơ qua câu chuyện. Bà đốc Nhân vò đầu, vuốt tay, thằng Bon cười tủm tỉm. Ông bà đốc Nhân trở lại cô nhi viện vài lần sau đó, cuối cùng quyết định xin thằng Bon làm con.

    Sáng thứ bảy, bà đốc thức dậy thật sớm, cẩn thận xếp bộ quần áo mới, mua ngoài chợ mấy ngày trước cho thằng Bon và hộp bánh tây lạt thơm phức mùi bơ, vào túi xách, pha tách nước trà đậm nóng, ngồi nhìn ra cửa sổ chờ sáng. Ông đốc ngủ cũng không yên, rục rịch thức theo. Con sáo hoang xoãy đôi cánh ướt mềm sương sớm trên bực thềm đá ngoài sân bên gốc cây mai già, tết qua rồi mà hoa vẫn còn vàng hực một màu. Tách trà vừa nguội, xe cộ bắt đầu rộn rã ngoài đường, ông đốc quơ vội cái nón nỉ đội lên đầu, bà đốc sửa lại chiếc khăn lụa quàng cổ, đóng cổng rào.

    Sương đêm tan dần ở cuối đường, trời đã có chút nắng ấm. Thằng Bon lùng thùng xúng xính trong bộ quần áo mới tinh, ôm hộp bánh tây chạy qua chạy lại, lăng xăng nói năng với mấy đứa bạn cùng tuổi, rồi đến vòng tay chào từ giã ông Chánh đầu sư và người đàn bà giúp việc, đứng chờ. Ông bà đốc chậm rãi ra đường, thằng Bon lửng thửng đi sau, thỉnh thoảng quay đầu nhìn lại. Đám bạn mồ côi ngoài hành lang không còn ai ở đó nữa.

    Nhà bây giờ có ánh đèn khuya. Thằng Bon không bao lâu đã đọc chữ làu làu, thuộc cữu chương ngược xuôi xuôi ngược. Ông bà đốc đi đâu nó cũng đòi theo, dạ thưa quấn quýt. Vào lớp năm, chưa đầy nửa năm, cô giáo cho lên lớp tư. Ai cũng nể nang, một hai gì cũng con ông đốc học. Bon dễ dạy, không thấy bị rầy la lớn nhỏ chuyện gì, ham đọc sách ôn bài. Lúp xúp loanh quanh phụ ông đốc nhổ cỏ quét lá trong vườn nhà quanh năm suốt tháng. Buổi chiều nào ông bà cũng đứng ngoài cổng rào, chờ thằng Bon về mỗi khi nghe tiếng chuông tan học reo lên từ sân trường tiểu học tỉnh nơi mà ông đã có thời đứng nhìn bọn trẻ ra về với hàng trăm nụ cười trọn vẹn.



Thuyên Huy

(Chuyện được viết bằng tưởng tượng và người viết tự dựng bối cảnh. Xin thứ lổi cho những trùng hợp vô tình từ tên người tới địa danh).





   

2 nhận xét:

  1. Trước 1963,tại miền Nam,lớp 5 là lớp một bây giờ

    Trả lờiXóa
  2. Đọc chuyện nầy để thấy dù cha mẹ ruột có đứt ruột lìa con nhưng rồi trong cuộc sống hàng ngày,đứa trẻ mất sự gắn bó với cha mẹ ruột nên tình cảm ko đậm đà...điều nầy cũng dễ hiểu

    Trả lờiXóa

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...