Thứ Ba, 31 tháng 12, 2024

CUỐI NĂM NHỚ LẠI TẾT QUÊ NGHÈO - Thơ Ngọc Ánh

CUỐI NĂM NHỚ LẠI TẾT QUÊ NGHÈO

Cứ mỗi độ gió mùa se se lạnh
Hồn bâng khuâng nhớ những Tết u sầu
Lặng buồn lo sợ hãi chiến tranh lâu
Xuân cứ đến nao nao lòng tuổi trẻ

Nhiều xa xót trong kiếp nghèo quạnh quẽ
Vẳng xa nghe tiếng súng nổ vọng về
Cuộc chiến lan tràn thành thị đến thôn quê
Nồi bánh tét bập bùng sau chái bếp

Màn khói mỏng hòa theo mùi gạo nếp
Đêm ngại ngùng ngủ gật dưới mưa Xuân
Bầu trời đêm hoa pháo thắp sáng trưng
Giữa giây phút giao thừa giờ khắc điểm

Mơ thanh bình người lính bày ra kiểu
Đón chào năm không có bánh chưng xanh
Nhà ai mai e ấp nở bên thềm
Bánh nhân chuối thơm lừng hương lá dứa

Xôi lá cẩm nhân đậu xanh bánh ú
Bao nhiêu đó gợi cơn thèm chưa đủ
Tết lại về hờ hững giữa trời sao
Bao hồi ức quay cuồng trong trí não

Năm tháng cũ vùi quên cùng mưa bão
Tết tha hương hoài niệm Tết năm nào
Tuổi đời thêm vàng đá cũng hanh hao
Cầu mong chỉ Xuân đời quay trở lại
Ngọc Ánh Nguoideplongyen

30/12/2024 


Mời Xem :

NHỚ MÙA GIÁNG SINH XƯA - Thơ Tranh Ngoc Ánh (nguoideplongyen )

CHUYỆN TÌNH MIỀN TÂY (Diễn Đàn Nhân Bản )

 

Tôi hay nói Trần Lục Bình là cô gái có nét đẹp nam tính, Bình liếc mắt rồi cười:

– “Xàm quá ông, kệ tía tui đi”…

Tôi biết Bình năm 1999 khi tôi vào TP.HCM thi Đại học. Trước ngày thi, tôi thuê căn phòng gần địa điểm thi ở Q1. Chiều đó Bình lục tục đến thuê phòng. Lúc ấy, tôi chẳng có ấn tượng gì nhiều ở Bình ngoài giọng nói đặc sệt Miền Tây.

Đêm đó, tôi thấy Bình cứ đi ra đi vào vẻ không ngủ được vì căn phòng nóng hầm hập… Tôi mạnh dạn mời Bình qua ngủ chỗ tôi vì tôi có máy quạt. Bình nhìn tôi mắt tròn xoe:

– “Ngủ bên ông, ông có mần thịt tui hôn đó?”

Tháng ngày chờ kết quả thi cũng xong, ngày tôi từ Miền Trung vào lại TP.HCM để làm thủ tục nhập học thì Bình cũng xếp hàng sau lưng tôi để làm thủ tục.

Nhìn thấy nhau, Bình la lớn:

– “Trời, dữ thần hôn, ông cũng đậu trường này hả?”

Tôi và Bình đậu chung trường, chung khoa, học chung lớp, chung tổ và tất nhiên chúng tôi ngồi chung bàn với nhau luôn cho trọn bộ.

Bình rất có duyên, dễ gần và trực tính. Tuy nhiên, điều tôi thấy thú vị nhất chính là giọng điệu Miền Tây của Bình.Tôi quê Miền Trung, nên lời ăn tiếng nói của Bình tôi thấy cứ “tầy quầy” sao đó.

Bình xưng hô với tôi là “ông, tui”… Lúc 2 đứa giận nhau, Bình lại xưng hô khác, kiểu như: “Tui mang cua qua cho mí người, không thích thì nói, chứ mí người bắt tui ngồi đợi mình ên chiều giờ dậy?”.

Nói về cua thì chẳng ai tin, thời sinh viên khó khăn cơm ăn còn thiếu, nhưng cua, cá thì tôi “ăn lòi bản họng” vì nhà Bình ở Cà Mau, cua nhiều “binh thiên”.

Tôi với Bình thân nhau đến nỗi cả lớp ai cũng tưởng cả 2 là một cặp, nhưng không. Nhiều lúc tôi hỏi Bình chuyện tiếp xúc của cả 2 như thế này thì ở Miền Trung hiếm lắm, Bình cười to:

– “Tui biết tính ông hổng có bốc hốt nên tui tin chứ bộ”.

Bình kể rằng, ở Đất Mũi, cha Bình chuyên đi mua lục bình để nuôi gia cầm, nên cha Bình “mắc chứng” đặt tên thứ nổi trôi này cho Bình.

Bình còn kể rằng quê Bình ở có “cây cầu Rạch Tàu, là cây cầu cuối cùng của đất nước tính từ Bắc vào Nam”. Ai yêu quê hương thì đều có những tự hào nào đó nơi xứ sở của mình như Bình. Và từ ngày thân thiết với Bình, tôi biết nhiều hơn về Miền Tây và thương luôn giọng Miền Tây từ Bình dù lúc đó tôi chưa từng đặt chân đến vùng đất này.

Tối đó Bình hẹn tôi qua phòng trọ. Khi tôi đến nơi thì thấy Bình cho tôi nguyên thùng cạc tông “chà bá” gồm nồi, xoong, bếp ga… Bình nghỉ học, về quê lấy chồng.

Bình kể: “Ảnh thương tui đứt ruột, tui đâu bắt ảnh đợi được, vả lại tui cũng muốn cho cha dui”.

Bình cười rồi thảy cái mền “chim cò” vào người tôi:

– “Cho ông luôn đó, nhớ tui thì đắp cho đỡ nhớ. Giờ tui bao ông đi nhậu rồi tui lên xe dìa quê luôn”.

Từ đó tôi và Bình bặt tăm nhau. Tôi nhớ Bình có dặn tôi trước khi lên xe: “Ông dìa đến cầu Rạch Tàu là hết đất, ông quẹo trái vào xóm, hỏi người ta hồng danh của cha tui thì họ chỉ cho. Ở lại mạnh giỏi nha!”.

Nhìn chiếc xe từ từ lăn bánh, lần đầu tiên tôi thấu tâm trạng “đứt từng khúc ruột” như lúc Bình “quởn” lên hay ngân nga câu ca cổ nào đó.

Tôi ra trường và bon chen cùng dòng đời 20 năm. Trong suốt khoảng thời gian đó, tôi đã đến khắp nơi ở Miền Tây, gặp nhiều con người bình dị cùng những giọng điệu Miền Tây thân thuộc.

Ở vùng đất này, dường như cái tính, cái tình của người Miền Tây được biểu lộ ra hết từ giọng điệu: “Hôm qua bụng má nghĩ đến mày, dạo này khỏe hôn con?”, “Quà gì mà dữ thần vậy mậy? Dìa chơi được rồi, quà cáp làm gì”, “Mỗi lần nhậu là nhớ anh trời gầm luôn, coi hổm nào phẻ phẻ xuống em quắc cần câu một bữa nha,”

Trong đêm kỷ niệm ngày thành lập doanh nghiệp của tôi, gần tàn cuộc vui, có cậu nhân viên nào đó cao hứng đố cả bàn: “Cây cầu cuối cùng ở Miền Tây tên là gì?”. Trong bàn toàn là người làm nghề du lịch, nhưng chẳng ai có đáp án chính xác. Tôi tự nhiên nhớ Bình cồn cào, gần 25 năm rồi còn gì. Và tôi quyết về Miền Tây ngay sáng hôm sau.

Tôi chầm chậm lái xe qua cầu Rạch Tàu, đúng như Bình nói, qua hết cầu thì chỉ còn rừng tràm trước mặt, rẽ trái vào đường xóm nhỏ đi tầm 2 km nữa là ra Đất Mũi.

Tôi lội bộ vào xóm, hỏi tên cha của Bình, nhưng chẳng ai biết. Cuối cùng, có bà lão nào đó nhớ tên ông, chỉ đường cho tôi vào nhà Bình. Nhờ đó tôi cũng biết thêm, năm xưa Bình về quê lấy chồng, chỉ sau một năm thì cha Bình mất.

Tôi đứng trước vựa hải sản cũng khá bề thế, thấy Bình đang ngồi bàn làm bà chủ. Bình đã tròn hơn xưa, xinh xắn hơn, và giọng điệu thì vẫn “tầy quầy” vậy. Tôi đi thẳng đến nơi Bình ngồi, Bình nhìn tôi lạ lẫm.

Tôi bình thản ghẹo:

– “Tui muốn nằm cùng mí người một đêm như xưa, được không Bình?”

Bình nhìn tui sững sững rồi có vẻ chuẩn bị nổi sùng, tôi tháo mắt kiếng, cởi khẩu trang, nhìn Bình mỉm cười. Bình sững sờ, rồi cười la lên như tôi đoán:

– “Chèng đéc ơi, ông Dũ… tui nhìn ông không ga luôn?”.

Những ngày vui vẻ đó tôi cứ như là thượng khách với gia đình Bình. Bình giới thiệu bạn thời “sanh diên” với chồng, hàng xóm và cả các mối lái làm ăn của Bình. Lại một lần nữa, tôi được sống cùng cái tình và vô vàn giọng điệu Miền Tây hào sảng thân thuộc mà tôi thương nhớ ấy.

Đêm nhậu chia tay Bình, tôi trả lại Bình cái mền “chim cò” năm xưa rồi đòi cái mền mới, Bình cười ngất:

– “Trời… cưng mắc chết luôn… ông làm tui khóc đó ông Dũ”….

Tôi khệ nệ xách bao tải “chà bá” đầy cua, cá bỏ lên xe. Vợ chồng Bình tiễn tôi, gương mặt Bình buồn hiu.

Tôi nhìn Bình mỉm cười:

– “Vậy là hòa… Ai cũng tiễn ai rồi nha”.

Bình khẽ cười, vẫy tay tạm biệt tôi. Năm xưa Bình là cả Miền Tây trong tôi, giờ khi già nửa đời người, mỗi khi thương nhớ giọng điệu thân thương xứ Chín Rồng này rồi tìm về, đi đâu tôi cũng sẽ thấy Lục Bình.

Tôi nhìn lại cây cầu Rạch Tàu cùng con xóm có lẽ cũng cuối cùng đất nước này, tôi như thầm hiểu thêm rằng, còn thương mến nhau, thì dẫu nơi kỳ cùng, ai đó cũng sẽ tìm về.

Như tôi vậy, cũng vì trót thương những giọng điệu Miền Tây đẫm tình phù sa châu thổ nơi này.

FB Cha PDien Truong / Phuong Tran Bao Nguyen Quang chuyển tiếp..

HoaHuynh chuyển

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2024

TẠM BIỆT NĂM CŨ ; Thơ DUY ANH Và Bài Họa Của các Thi Hửu


TẠM BIỆT NĂM CŨ

(Thể thơ S.T.L.B.)

Em yêu hỡi, lẽ nào quên hết
Tình yêu xưa nào chết trong lòng
Lẽ nào quên lãng tuổi hồng
Lẽ nào người chẳng nhớ mong, hở tình?

Khi ngọn lửa tình mình đủ ấm
Thì em ơi mộng thắm thăng hoa
Cụng ly, uống cạn đi mà!
Tiễn đưa ngày tháng vèo qua cuộc đời...

Ta sánh bước, thảnh thơi tay nắm
Hái chùm hoa Cúc thắm, chúc nhau
Lang thang chân mỏi gối đau
Ngạc nhiên thời khắc qua mau không ngờ!

Thuyền nan đã xa bờ... phiêu bạt
Cho tới khi nắng nhạt, chiều buông
Bên nhau dù sóng biển cuồng
Mình vẫn nghe lặng tiếng buồn thời gian...

Nắm tay nhé, tình lang yêu dấu
Đôi ta là phối ngẫu của nhau
Tình mình thật rất đậm sâu
Thời gian cứ thế trôi mau ngày ngày...
DUY ANH

Happy New Year 2025


Xin góp họa.

Về Đây Em

Về đây em khi năm vừa hết
Đến với anh nối kết tơ lòng
Trông kia một đóa hoa hồng
Anh mang đến tặng em đong đầy tình.

Mừng năm mới tay mình sưởi ấm
Chào đón xuân tươi thắm mặn mà
Bên ngoài người đốt pháo hoa
Bên trong thời khắc bên ta mỉm cười.

Trên một chậu hồng tươi vừa thắm
Dưới đôi tay mình nắm chặt nhau
Thời gian từng bước đi mau
Bây giờ mình đến bên nhau nào ngờ.

Đời tợ mây lửng lờ lang bạt
Tình như lòng dào dạt yêu đương
Đêm nay từng lọn sương buông
Làm màn che chắn căn buồng nhân gian.

Anh sẽ bỏ đời lang bạt sống
Em giữ gìn cõi mộng cùng nhau
Càng lâu tình , nghĩa thêm sâu
Thương yêu cho đến bạc đầu răng long.

2024-12-27
Võ Ngô



2./ Tình Đôi Ta

Anh hỡi buồn vui còn nhớ hết
Lời anh say đắm chết bên lòng
Lời ru sưởi trái tim hồng
Cho ai khoảnh khắc đợi mong cuộc tình

Những lúc kề vai mình thật ấm
Dường như lối mộng đậm ngàn hoa
Thiên đường lạc cảnh đây mà
Cầm tay dìu dắt đi qua ngưỡng đời


Mơ được ngày sau trời kết nắm
Ngọt bùi tô điểm thắm cho nhau
Dẫu rằng có lúc trở đau
Thời gian vùn vụt thoáng mau ai ngờ

Có lúc lênh đênh bờ sóng bạt
Trôi hoài phiêu lãng dạt thuyền buông
Hoàng hôn giông bão nổi cuồng
Có khi để mặc lưới buồn trần gian

Hạnh phúc ơi bên nàng khắc dấu
Chúng mình luôn hợp khẩu kề nhau
Đôi ta tình cảm rất sâu
Không gì chia cách …bền lâu tháng ngày
Mình Thúy Thành Nội
Tháng 12/23/2024


3./ DẤU NGÀY QUA

Bên nhau mỗi mùa thu vừa hết

Ta còn yêu dấu chết hương lòng
Đông qua Xuân có phai hồng
Hoa đào rung cánh lệ mong manh tình

Ta mong ước bóng hình đầm ấm

Để cho lòng nở đậm muôn hoa
Lời thơ theo ý mặn  mà
Áo thơ bay mãi bước qua mộng đời

Trong cơ khổ tay người cùng nắm

Ngày lại qua lệ thắm cùng nhau
Bên đời có lúc thấm đau
Ôi sao một thoáng trôi mau chẳng ngờ

Xa quê trải bến bờ lang bạt

Buồn lên làn khói dạt dần buông
Nhớ quê lòng có điên cuồng
Sóng xô theo sóng gửi buồn nhân gian

Lòng ta mãi theo ngàn lối dấu

Bao ngày qua bến đậu bên nhau
Dấu tình còn mãi in sâu
Dầu năm tháng vẫn trôi mau cùng ngày.

Lê Mỹ Hoàn

12/2024

 4./ TẠ TỪ
Họa nương vận:Tạm Biệt Năm Cũ

 Quả khó không làm sao biến hết
Thân thương kia chẳng chết nơi lòng
Hương xuân thời mãi tươi hồng
Hằng đêm với mộng vẫn mong tỏ tình.

Lửa Noel khiến mình thêm ấm
Lời yêu thương đằm thắm hơn hoa
Không sao, này chớ ngại mà
Ai thời cũng vậy khó qua lẽ đời.

Cứ vui lên nhàn thơi tay nắm
Hỏi ngại chi môi thắm trao nhau?
Mình bên xóa hết nỗi đau
Kệ đời ập đến quá mau khôn ngờ.

Nay ấy hả đôi bờ lang bạt
Tàu xa dần khói nhạt màn buông
Nhớ ơi mãi nhớ điên cuồng
Đừng chê trách nhé, chớ buồn nhân gian…

Nghe rõ chứ ” Auld Lang Syune” tấu?
Từng nghe quen tán ngẫu với nhau
Nay đành chôn mối tình sâu
Làm chi đây nhỉ cho mau hết ngày?

Thái Huy 12/29/24

 

Cáp treo 1.200 m đi trong bốn phút

 Thụy Sĩ

Với độ dốc 159,4%, tuyến cáp treo kết nối làng Stechelberg dưới thung lũng và làng Murren trên núi có thể lên cao 775 m chỉ trong bốn phút.

Tuyến cáp treo dốc nhất thế giới nối làng Lauterbrunnen với Murren. Ảnh: Schilthornbahn Piz Gloria

Tuyến cáp treo dốc nhất thế giới nối làng Lauterbrunnen với Murren. Ảnh: Schilthornbahn Piz Gloria

Tuyến cáp treo dốc nhất thế giới, kỳ quan kỹ thuật đáng kinh ngạc trên dãy núi Alps, bắt đầu hoạt động ở Thụy Sĩ cuối tuần trước, Interesting Engineering hôm 17/12 đưa tin. Tuyến cáp giúp kết nối làng Stechelberg và Murren, vận hành tự động mà không cần nhân viên. Thay vào đó, camera và cảm biến liên tục giám sát quá trình vận hành, đảm bảo an toàn suốt hành trình.

Cabin leo lên độ cao 775 m dọc theo đường cáp dài gần 1.200 m chỉ trong 4 phút. Với độ dốc cực lớn, đạt 159,4%, hệ thống sử dụng cabin thiết kế đặc biệt treo dưới cánh tay dài 11 m. Những cabin này có thể chứa tối đa 85 hành khách cùng lúc, mang đến chuyến đi an toàn và êm ái bất chấp độ dốc lớn.

Tại lễ khai trương chính thức hôm 13/12, cabin đầu tiên đã chạy trên tuyến cáp lên dốc. Hệ thống bắt đầu phục vụ hành khách thường xuyên vào hôm sau.

Tuyến cáp mới là một phần của tuyến đường lớn hơn gồm 3 đoạn đang được phát triển trong dự án Schilthornbahn 20XX. Toàn bộ mạng lưới sẽ kết nối Stechelberg và Murren với đỉnh Birg, cuối cùng là đỉnh Schilthorn nổi tiếng nhờ bộ phim James Bond năm 1969. Khi hoàn thành, thời gian di chuyển sẽ giảm từ 32 phút xuống còn 18 phút.

Ngoài tuyến cáp treo dốc nhất, hệ thống cáp treo Funifor mới giữa Murren và Birg cũng vừa khánh thành. Chặng cuối của tuyến đường, chạy từ Birg đến Schilthorn, dự kiến mở cửa vào tháng 3/2025.

Đây là lần đầu tiên Thụy Sĩ ứng dụng công nghệ Funifor. Hệ thống Funifor nổi bật với khả năng chịu gió tốt và các đường cáp độc lập, đảm bảo độ tin cậy quanh năm. Hoạt động độc lập nghĩa là đường cáp có thể tiếp tục hoạt động ngay cả trong lúc hệ thống đang được kiểm tra hoặc bảo trì. Được thiết kế với sức chứa 100 hành khách mỗi cabin, hệ thống đảm bảo việc vận chuyển không gián đoạn, một yếu tố quan trọng trong mùa trượt tuyết với lượng du khách lớn.

Thu Thảo (Theo Interesting Engineering)

Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2024

Trang Thơ NKĐ ; MẶT TRÁI , CƠM CHÁY, THEO BƯỚC CHÂN CHA, MÙA XUÂN Và CHỢ ĐỜI , KHÓ MUA,TịNH KHẨU (T.12/2024..3 )

1./ MẶT TRÁI
Sáng cơm nguội , cà phê tự khuấy
Sống qua ngày , chẳng cậy nhờ ai
Cháu con rủng rỉnh nước ngoài
Còn mình cam chịu, ăn mày nó chi !
Khi còn nhỏ, mình thì nuôi dưỡng
Lớn lên rồi , ai hưởng mặc ai !
Nợ nần mình lãnh mình vay
Nó đi chữ tín cũng bay theo mà
Đời lắm kẻ ranh ma quỷ quái
Cứ bâu vào , nào ngại gì đâu
Lý Thông nắm trọn cái đầu
Nó thì lại nghĩ , ân sâu nặng lòng
Rồi khổ cực chẳng mong gì trả
Nặng nhọc thì lăn xả vào thôi
Ruột rà , quỷ nhất trên đời
Lại còn bẻ mặt nói lời điêu ngoa
Người ta bảo khôn nhà dại chợ
Ép mẹ cha , nặng nợ người dưng
Vĩnh vang đừng có vội mừng
Nay vầy mai khác vô chừng lắm thay !
Cần phải học , tâm rày thật sáng
Hiểu lẽ đời cho rạng hiếu thân
Thiếu nghèo giữ dạ thanh bần
Trời cao có mắt, để phần an nhiên
10g16.23/12/2024
Ngô Kế Đang

2./ CƠM CHÁY
Hỏi rằng cơm cháy ngon không mẹ ?
Mẹ bảo rằng : ngon , ngon lắm con !
Và rồi, mỗi bữa cơm là thế
Cơm cứ sạch nồi , chẳng khác hơn
Nhà nghèo , nhiều miệng, còn sao dược !
Mẹ vẫn dành phần cơm cháy thôi
Phải đâu thiếu thốn là vô phước
Gà mẹ nuôi con , cả cuộc đời !
Chắt chiu tiền bạc nuôi con lớn
Tằng tiện đồng lương cha gửi về
Giữa chốn chợ đời nhiều hỗn độn
Chiến chinh mà ! Một kiểng hai quê
Hoà bình , đã khổ càng thêm khổ
Nhà vốn đông người , cha mất lương
Con biết đi làm nên nhẹ nợ
Giao thời, cơm cháo sạch nồi luôn
Bây giờ cơm cháy thành đặc sản
Cơm cháy chà bông - Mẹ chẳng còn
Biết đến bao giờ ? Buồn vô hạn
Ôi nhìn cơm cháy. Nhớ nhiều hơn !
8g18.24/12/2024
Ngô Kế Đang.

3./ 
THEO BƯỚC CHÂN CHA
Nhớ xưa đầu tháng lương vừa lãnh
Cha dẫn cả nhà đi quán ăn
Cùng mẹ mấy em xem sang chảnh
Cao nguyên xứ lạnh , ấm chi bằng !
Mỗi hè nghỉ học đều ra đấy
Theo bước tha phương , bước của cha
Có dịp mở mang là như vậy
Nam , Trung nhiều tỉnh đã từng qua
Đường cha xa rộng theo non nước
Tập quán nhiều nơi cha học theo
Những gì cha biết - Con thu được
Cái học sàng khôn của kẻ nghèo
Nghèo tiền , nghèo bạc , giàu tri thức
Hoà nhập với người cũng khá mau
Học ít , biết thêm nhiều lĩnh vực
Con giờ nào ngại khó khăn đâu !
Mỗi lần du lịch , nhớ ngày xưa
Cảnh dẫu đối thay , biết chẳng thừa
Tình người vẫn vậy , nào thay đối
Đi hết đời cha , con hãy chưa !
6g15.26/12/2024
Ngô Kế Đang.
MUÀ XUÂN & CHỢ ĐỜI
Hôm nay chở vợ cùng đi chợ
Chờ đợi mua đồ , sốt ruột thôi
Vợ ra , lại bảo không sao thở !
Chẳng phải người đông , giá ngất trời
Còn chừng một tháng thì nguyên đán
Mỗi thứ đều lên , chóng mặt thôi
Chẳng biết ngành nào , ai lại quản.
Nhiều ngành, mặc sức giá lên ngôi
Hưu nghèo , ứng trước lương một tháng
Ngoắc ngoải cho qua cái Tết xong
Ra giêng bóp bụng nào than vãn
Hỏi kẻ cần lao , có Tết không ?
Thì thôi " họ vũ tên như cẫn "
"Tiết kiệm " vui xuân phải vậy thôi !
Mỗi năm ước vọng rồi thêm chán
Túi trống sao mơ đổi cuộc đời ?
Mùa Xuân , ai lấy mùa Xuân đấy?
Chính chiến qua rồi , mấy khá hơn ?
Cái chợ , chợ đời luôn vẫn vậy
Ta già, ngao ngán lắm Xuân sang!
12g10.26/12/2024
Ngô Kế Đang.

KHÓ MUA
Sống chung mà nói hận thù
Thì thôi chẳng phải cầm tù với nhau
Sống mà sinh sự lao đao
Thì thôi huyệt mộ bên nhau làm gì ?
Sống thật - Giả tạo mà chỉ ?
Ơn người phải trả , khắc ghi váo lòng
Sống đừng ơn nghĩa trả không
Phủi đi tất cả , bội vong sao người !
Tôi sinh nặng nợ ơn đời
Khó ai mua rẽ tình tôi đâu nào !
TỊNH KHẨU
 
Chẳng phải đi , chẳng phải nghe
Chẳng cần suy nghĩ , chẳng dè dặt ai
Đời ai cũng bảo mình tài
Nên khi chạm đến, ai ai cũng buồn
Phải là liệu giữ cái hồn
Chạm anh quyền thể thì luôn thiệt mình
Bây giờ thời cuộc đáng kinh
"Hoạ vô đơn chí" thiệt tình hại thân
Lỡ người cương trực cầm bằng
Ở nhà tịnh khẩu chác ăn thôi mà !
8g38.28/12/2024
Ngô Kế Đang.

Kharkhiv nước Ukraine - Le Thanh Hoàng Dân

 
Kharkhiv nước Ukraine. Hình FB "Architecture - Travel Photography".

"Kharkiv hay Kharkov là thành phố và là đô thị lớn thứ hai của Ukraina. Nằm ở phía đông bắc của đất nước, đây là thành phố lớn nhất của khu vực lịch sử Sloboda Ukraina . Kharkiv là trung tâm hành chính của tỉnh Kharkiv và các vùng lân cận Kharkiv Raion. Nó có dân số 1.421.125 (ước tính năm 2022).
Kharkiv được thành lập vào năm 1654 với tư cách là một pháo đài và đã phát triển thành một trung tâm công nghiệp, thương mại và văn hóa Ukraina lớn của Đế quốc Nga . Vào đầu thế kỷ 20, thành phố chủ yếu có dân số là người Nga , nhưng khi sự mở rộng công nghiệp đã thu hút thêm lao động từ các vùng nông thôn khốn khó, và khi Liên Xô giảm bớt những hạn chế trước đây đối với việc thể hiện văn hóa Ukraina, người Ukraina trở thành nhóm dân tộc lớn nhất trong thành phố vào đêm trước của Thế chiến II . Từ tháng 12 năm 1919 đến tháng 1 năm 1934, Kharkiv là thủ đô đầu tiên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina .
Kharkiv là một trung tâm văn hóa, khoa học, giáo dục, giao thông và công nghiệp lớn của Ukraine, với nhiều bảo tàng, nhà hát và thư viện, bao gồm các nhà thờ Truyền tin và Ký túc xá , tòa nhà Derzhprom ở Quảng trường Tự do và Đại học Quốc gia Kharkiv . Công nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Kharkiv, chủ yếu chuyên về máy móc và điện tử . Có hàng trăm cơ sở công nghiệp khắp thành phố, bao gồm Cục thiết kế Morozov , Nhà máy Malyshev , Khartron , Turboatom và Antonov.
Vào tháng 3 và tháng 4 năm 2014, lực lượng an ninh và những người phản đối biểu tình đã đánh bại nỗ lực của phe ly khai do Nga hậu thuẫn nhằm giành quyền kiểm soát thành phố và chính quyền khu vực. Kharkiv là mục tiêu chính của các lực lượng Nga trong Chiến dịch đông bắc Ukraina trong cuộc xâm lược Ukraina vào năm 2022 của Nga trước khi họ bị đẩy lùi về biên giới Nga-Ukraina. Thành phố vẫn nằm dưới hỏa lực không liên tục của Nga..." (Wikipedia)

Phí lão cắt cổ vịt - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

        Phí lão cắt cổ vịt

 

       Trên núi Xuân Đài, Thanh Hóa có động Hồ Công.


 

Người xưa dựa vào thế núi và động Hồ Công khác nào chốn bồng lai tiên cảnh mà tạc vào vách đá cửa động câu Sơn bất tại cao, hữu tiên tất linh - Giang bất tại thâm, hữu long tất ứng. Nôm là núi không cao mà có tiên tất linh thiêng, sông không sâu mà có rồng tất ứng nghiệm.

 

Với chuyện tiên, rồng Liệt tiên truyện ghi:

       Đời Tây Hán, năm 206 trước công nguyên, ông Hồ Công hằng ngày uống rượu ở chợ đeo cái bầu bên hông. Tối đến vào cái bầu ấy mà ngủ. Tửu đồng họ Phí hàng ngày hầu rượu, một hôm xin cho chui vào cái bầu. Hồ Công bằng lòng, tửu đồng họ Phí thấy trong bầu như cảnh thần tiên rất ngạc nhiên. Hồ Công nói: “Ta là tiên bị đầy nên tạm ngụ ở đấy”. Họ Phí xin học đạo tiên và được dẫn lên núi tu luyện. Khi tạm biệt, Hồ Công trao cho họ Phí cây gậy tre, có phép thâu ngắn đường đi.

       Trong Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn có câu: Hận vô Trường Phòng xúc địa thuật, bà Đòan Thị Điểm diễn Nôm là: Gậy rút đất dễ khôn học chước.

       Họ Phí nay là Phí Trường Phòng ngày ngày bên quán rượu với thịt chó, nhưng không có tiết canh vịt. Buồn tình bèn cưỡi cây gậy tre bay về thổ ngơi bản quán.

        ***

       Đời sau tại đất Hút-tân có Phí lão ông là người quên cả cổ sự tằng tổ. Phí lão làm quan ba mươi tư năm, lui về Trúc gia trang ở ẩn. Tuổi mới chớm già, chưa đến nỗi lẩm cẩm. Tính thích rượu, văn phú. Bởi theo cao tằng tổ tổ Phí Trường Phòng của Phí lão qua: “Cuộc thế công danh mơ tưởng hão - Bầu rượu phong nguyệt thú vô cùng”. Tế quán tức vợ nhà thấy uống nhiều quá nên ngăn can. Phí lão nói: "Nếu ta hám lợi, lại một phen nhọc nhằn vào kinh, lăn lộn trong chốn đô hội. Thưở hàn vi, đồ thư nửa gánh, chả đâu vào đâu. Bằng một sớm lại vương vào cái hư danh. Nay ta trong cuộc rượu, nhưng không có hại. Nếu bỏ cái nhân sinh quý thích chí còn gì ra cái hồn người, lấy gì mà mua vui lúc tuổi già cám cảnh đây.

        Nói xong, chẳng bận lòng, ra chum tắm. Vào nhà khăn đóng áo dài, đứng trước bàn thờ vái bài vị: Lưu Linh (xem tr 5). Rồi Phí lão nhắc vò rót rượu, uống vài chén cho say tít cù lỳ. Say rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại uống, uống rồi lại say, say với tỉnh cứ gối đầu lên nhau. Bởi thế coi cuộc đời như giấc mộng, coi phú quý tựa mây bay, lúc nào cũng li bì mờ mịt. Bấy giờ là ngày mồng 5 tháng 5, Phí lão tuổi Giáp Thân, nay răng khuyết bốn, năm chiếc, mà cái vui trong tửu lượng vẫn chưa suy.

       Bèn ngoảnh lại bảo tế quán: bà biết đấy, ta xưa nay chuyên lo mài giũa ngôn từ, chuyên công làm văn, tuổi xanh làm phú. Thịt chó ta ăn đã mòn răng, mà ăn cái giống ấy ta lại hay…ủng oẳng với bà. Bà làm cho ta đĩa tiết canh vịt được chăng? Thế là bà ra ao nhúm con vịt chéo hai đầu cánh khép vào nhau là vịt đamg kỳ phát dục. Nếu được “vịt cỏ” Vân Đình, Thăng Long, nơi ông ứng thí năm nào thì hay biết mấy.

        Vừa lúc bà tóm cổ được con vịt chéo cánh bự sự, ông pha bốn thìa nước, hai thìa mắm. Trong khi bà dốc đầu con vịt, ông nhổ lông cổ vịt. Tiếp, ông cầm con dao bổ cau cứa cổ vịt xọet môt cái để tiết chẩy nhanh, nếu không, tiết chẩy nhỏ giọt sẽ bị bầm đen. Gọi cứa cổ xọet thế, nhưng phải lượng tay vì cắt chạm tới cổ họng, chất dơ ở cổ họng sẽ làm bát hãm tiết bị lợn cợn bọt. Xong, ông nhét đầu con vịt vào cánh, đứng lên, ông đảo con vịt 4, 5 năm vòng cho nó chóng mặt để ngủ quên trong cõi hư không. Trong khi ấy bà không ngồi không, bà hứng tiết vào bát, để cho tiết khỏi bị đông. Bà vừa khuấy vừa lâm râm khấn vái: “Bà báo đời cho mày biết nhá, vịt nhỡ nhỡ cỡ mày, bà phải cắt cánh mới có tiết. Gặp vịt già cốc đế cỡ ông nhà mày thì bà…cắt cổ”. Bà vào bếp luộc vịt để nhổ lông. Hốt nhiên bà nói: “Ông lấy…cái ấy đi”. Ông lên nhà lục lọi một hồi lâu lấy…cái nhíp mang xuống. Bà nhăn nhúm: “Giời ạ! Cái này để nhổ lông vịt già. Còn vịt non thì dùng cái ấy…ấy”. Ông lại thủng thẳng lên phòng thờ tự lấy “cái ấy ấy”. Bà hơ lửa…cái ấy ấy, bà lăn lăn lên thân con vịt làm sạch mớ lông tơ còn sót lại.

        Nhân chuyện cắt cổ vịt, Phí lão ông hồi nhớ lại cái năm động giời ấy:

       “…Chuyện nhằm vào năm thi Hương ở Trấn Kinh Bắc, nếu qua được bốn trường được gọi là ông Cống. Phí lão xuống Thăng Long xin sâm. Tới Hồ Gươm, vào Ngọc Sơn Từ có điện Văn Xương, nơi các sĩ tử thường tới xin sâm trước khi ứng thí. Phí lão gặp…một bà thầy bói. Bà dậy rằng: “Văn Xương đế quân linh hiển báo ứng không sai, nay mai Thầy tiến kinh nếu có thỉnh nguyện điều gì, Thầy lạy bà ba lạy”. Phí ông nổi hung đáp: ”Ta không lạy”.

       Năm ấy trường thi ra đề mục “Tứ tử lai hồi”. Phí ông ngồi trong lều cứ tơ tưởng đến bà thầy bói đẹp như Tây Thi ở hồ Gươm. Nên phóng bút…

       “Xuất kỳ Đông môn, Tây Thi bất lai. Xuất kỳ Nam môn, Tây Thi bất lai. Xuất kỳ Tây môn, Tây Thi bất lai. Xuất kỳ Bắc môn, Tây Thi bất lai. Tây Thi lai hồ?. Tây Thi lai hồ?”.

        Đang lõm ngõm với quá khứ lai hồi, bà sai Phí ông lấy đĩa đựng nhân tiết canh. Bà hỏi ông: “Hồi nãy ông pha 4 thìa nước, 2 thìa mắm phỏng”, bà hỏi vậy vì tùy theo tiết của con vịt nhiều hay ít, đĩa tiết canh đông đặc hay lỏng le hoặc mặn hay nhạt. Ngỡ xong, bà lại nhờ ông múc cho bà bát nước sôi để lát nữa hòa với bát hãm tiết. Bát lớn bát nhỏ tùy theo đĩa to đĩa bé, bá quan bá tính, có người thích tiết canh mỏng cho thanh cảnh, có người thích tiết canh dầy cho ngập mồm này kia, kia nọ.

       Bây giờ Phí lão mới động giời, động thổ về trường thi với văn bài khi xưa:

       “…Câu ấy nghĩa là: Đi ra cửa Đông, Tây Thi không đến. Đi ra cửa Nam, Tây Thi không đến. Đi ra cửa Tây, Tây Thi không đến. Đi ra cửa Bắc, Tây Thi không đến. Nàng có đến không? Nàng có đến không?. Khảo quan chấm thi đọc thống khoái quá thể, liền hạ bút phê: “Trí chi nhất đẳng, vô thị lý dã. Trí chi nhị đẳng, vô thị lý dã. Trí chi tam đẳng, vô thị lý dã. Trí chi tứ đẳng, vô thị lý dã. Tú tài khứ hỉ. Tú tài khứ hỉ ”. Nôm na là: Xếp bài hạng nhất, thật là vô lý. Xếp bài hạng nhì, thật là vô lý. Xếp bài hạng ba, thật là vô lý. Xếp bài hạng tư, thật là vô lý. Tú tài trượt rồi. Tú tài trượt rồi.

      Năm ấy Phí ông…trượt rồi, trượt rồi, mấy năm sau trở lại. Chợt nhìn dưới hồ Gươm vừa rùa, vừa vịt cò, tức vịt lông trắng, vịt cà cuống, tức vịt lông xám xanh đang bơi, ông bèn hỏi bỡn bà biết cắt cổ vịt chăng? Bà ngẫn ngẫn…cắt cổ ông còn đuợc nữa là…vịt. Thế là ông lạy bà ba lạy, năm ấy ông hóa thân thành ông Cống thật.

 

        Ông ôn cố tri tân một mẻ như “vịt chống gậy” đến đây, vừa lúc bà lâm râm: “Các cụ ta dậy muốn đĩa tiết canh đông có thể đem xỏ lạt treo lên được, nên bà phải băm…mày thật nhỏ, thịt đùi dàn đều vào đĩa cho mịn để…ông Cống nhà mày xơi. Nếu không chỉ tổ ông Cống nhà mày được thể lại nhiếc cho là các mụ vợ già nhà giống miếng thịt vịt già luộc dối, đã hoi lại dai như chão ấy. Nếu nhân tiết canh chỉ lòng, mề không thôi dai nhanh nhách, ông Cống nhà mày răng cỏ chỉ còn…lợi sao mà…nhai”.

       Nghe chối tai sao ấy, mặt như bát tiết canh sũng nước, Phí lão bỏ lên nhà trên. Không hay biết, bà…lề mề với cái mề vịt: “Mày không biết chứ nhân tâm nan mô áp đồn nan bác là tâm người khó rờ, mề vịt khó lột. Ấy là bà học lóm ông Cống nhà mày đấy”. Bà nói đay với con vịt đã tan tác đâu vào đó: “Bà theo đạo Bụt, bà không sát sinh nhưng bà…phóng sinh mày để ông Cống nhà mày nhắm rươu. Mày không biết ấy chứ…”. Vẫn không biết ông “biến” rồi, bà tiếp: “Không nói ông cũng biết thừa đĩa tiết canh chả thiếu hành nướng chín để tăng độ bùi ấy mà”. Bà nói với bát tiết: “Nếu mày lụng bụng như óc trâu, bà phải đào cây xả cả rễ nhúng vào bát tiết để hút hết bầm đen”.

 

     Với tay quơ chai nước mắm, bà rù rì với...bát nước mắm: “Thịt vịt phải chấm với nước mắm gừng. Pha nước mắm gừng cũng nhiêu khê lắm ấy nhá, vì gừng phải giã nhừ, thêm chanh, đường, ớt. Bà chỉ quơ dăm vòng đũa là bát mắm gừng nổi bùng lên ngay, dậy thơm ngào ngạt...Ấy là ông Cống mày nói thế, chứ bà có nói năng gì đâu”.

      Vừa lúc Phí lão lọ mọ vào bếp. Bà tặc lưỡi: “Dào, ăn thịt vịt mà uống rượu Ngang ở làng Ngang thì…ngang phè phè ra ấy. Bà hóng hớt: “Giời ạ, quên bu nó mất khoản rượu. Hay ông chịu khó đi mua nhá”. Rồi bà phủi tay đi lên nhà trên thắp nhang để tụng kinh sám hối vì lỡ…sát sinh.

        ***

       Thế là Phí lão cưỡi lên cây gậy tre rút đất bay sang đất Tàu. Mấy khắc sau đáp xuống phủ Giang Tô có quán rượu bèn bước vào. Phí lão bắt gặp một đại nhân ngồi bên bàn, trước mặt là cái bánh bao. Vừa lúc đại nhân ngâm nga đầy hào sảng:Đang uống rượu, nhìn ra cửa vừa lúc bạn rượu bước vào. Chẳng khoái ru?”.

       Phí lão ông biết ngay đây là Kim Thánh Thán.

       Chợt nhớ đại nhân đây là ngự sử văn đàn qua Lục tài tử thư, phê bình từ Sử ký của Tư Mã Thiên, đến Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Phí lão bèn thủ lễ:

       - Tại hạ họ Phí, người xứ An Nam, đã ngưỡng mộ tiên sinh bấy lâu.

       Phí lão có ý tìm bạn rượu mang về nhà nhậu nên quắn đầu:

       - Nay xin thưa ở bản quốc có món ngon hơn bánh bao nhân thịt trâu trên bàn kia. Từ con trâu, quý quốc tha ma mộ địa chỉ có món “Cát kê yên dụng ngưu đao” là cắt tiết gà há dùng dao mổ trâu, thì bản quốc có món…cắt tiết vịt. Thưa tiên sinh.

       Được thể Phí lão học Tàu cấm giả lịnh giả thị, là ai cấm người mang bị nói khoác. Phí lão bèn huếch đất An Nam ở tửu địa Quảng Trị thời đế Thiệu Trị có đế Kim Long. Tửu địa Bình Định thời đế Minh Mạng có đế Bàu Đá. Tuy nhiên Phí lão dấu biến bởi rượu dấu trong lùm mọc toàn cây đế, nên ta gọi là…rượu đế.

        Tuy nhiên, Thánh Thán nghe hoảng nghe tiều ta có rượu vua nên Thánh Thán hỏi lại cho chắc ăn: “Đế có phải là…vua chăng?”. Thế là Phí lão một tấc tận giời còn hơn…vua nữa. Bởi dân bét rượu nào có sợ ai Hiu hiu gió thổi đầu non - Mấy cha uống rượu là con Ngọc Hoàng. Nghe thủng rồi, Thánh Thán mà rằng nước Tàu từ thời Tam hòang ngũ đế không có…rượu đế. Thiệu Hưng Tửu có từ thời Chiến quốc. Mai Quế Lộ từ thời Tam Quốc. Mao Đài Tửu từ thời…Mao Trạch Đông.  Thánh Thán la tóang lên:

     - Hảo tửu! Hảo bằng hữu! Mà di chân đường Phí quân ở phương nao?

        Đọan Phí lão bảo Thánh Thán ngồi lên cây gậy nhắm mắt lại. Một khắc sau về đến Bắc Ninh, dọc đường làng chum, vại rượu lớn, nhỏ xếp thành hàng lối. Hai bên cổng làng có hai câu đối: Vân hương mỹ tửu lừng biển Bắc – Vạn Vân như nguyệt rạng trời Nam. Vào đình làng có bốn chữ đại tự “Vân hương mỹ tửu”. Phí lão thiên tải kỳ bút cho Thánh Thán hay vua Lê Hy Tông năm Chính Hòa thứ 24 (1703) phong cho danh tửu ở tửu địa Kinh Bắc này. Ấy là rượu làng Vân tiến vua, là rượu nếp cái hoa vàng chỉ trên cánh đồng làng Vân Xá mới có. Nói rồi Phí lão thửa hai vại Vân hương mỹ tửu.

             Về đến Hút-tân, Trúc gia trang, Thánh Thán bê cả vại rượu lên hít hà:

       - Quả thật tửu quốc đây của quý quốc nào khác gì Bồ Đào tửu của Thổ Lỗ Phồn Tây Vực. Hừm! Mỹ tửu quốc này cũng 10 năm chứ không ít. Hảo a! Hảo a!

       Phí lão ông lụm cụm:
      
- Rượu bản quốc hạ thổ gắn kín như thế, sao tiên sinh ngửi thấy được?
     
Kim Thánh Thán đáp:
     
- Rượu trong vại kín nhưng với tri kỳ hương, bản chức dùng mắt…nghe được.

      Phí lão ra điều mình là hậu bối của Phí Trường Phòng nằm ngủ trong hồ lô rượu:

      - Tại hạ nằm trong cái túi càn khôn tung hê hồ thỉ bốn phương trời uống rượu rách mép mà không hay Vân Hương mỹ tửu đã hạ thổ 10 năm. Nay xin thưa.

      Thánh Thán tam toạng:

      - Rượu qúy quốc chôn sâu dưới đất 10 năm, không cần moi lên nhưng với tri kỳ ảo, bản chức có thể dùng tai nghe được…vị ngon của rượu..

 

        Thánh Thán học ta với rượu không say, say vì chén:

        - Tuy có rượu ngon, nhưng lại không có chén tốt, thật đáng tiếc!

        Vì rằng ở cái thế lao dật của Phí lão là biện tửu bất nan, thỉnh khách nan, thỉnh khách bất nan, khoản khách nan, là bày rượu không khó, mời khách khó, mời khách không khó, đãi khách khó…khó thế đấy. Nghe rồi “khách” đã “khoản khách nan” rằng:

       - Uống rượu cần tửu cụ. Uống Thiệu Hưng trạng nguyên hồng phải dùng chén phỉ thúy. Uống Bồ đào mỹ tửu phải dùng chén dạ quang, thưa các hạ.

       Phí lão bụng bảo dạ Tàu làm quái gì có chén dạ quang. Bởi cứ ăn ốc nói mò câu dục ẩm tì bà mã thượng thôi tích từ người Mông Cổ vừa cưỡi ngựa vừa uống rượu đâu có chén bát nên cưa sừng bò, sừng trâu làm chén. Vì sừng bò, sừng trâu có chất lân tinh nên Tàu gọi…linh tinh là Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi ấy thôi.

 

      Làm như vô tri thời bất mộ với ý người ta không mến mộ cái người ta không biết đến…sừng bò, sừng trâu. Thánh Thán chỉ vại rượu mà rằng:

      - Rượu qúy quốc là rượu thâm niên cổ đại phải dùng đấu lớn mà uống, mới lộ ra được cái khí khái, khí phách, cổ nhân đã nói như thế, thưa Phí quân.

       Nghe láo quáo…cổ nhân nói thế, chẳng cần biết cổ nhân là ai, nói thế nào. Vì vậy Phí lão vào bếp moi ra được hai cái đấu gỗ thường ngày tế quán dùng để đong gạo. Nhìn thấy hai cái đấu gạo để…uống rượu rồi, Thánh Thán yên chí ngồi trên chiếu kiểu thiền tọa, tức ngồi để hai bàn chân ngữa gác lên vế. Phí lão thấy hay hay bèn hỏi. Thánh Thán giải luận ấy là kiểu ngồi “phu tọa” của tửu đạo. Vì Kinh tửu có câu phu tọa nhàn song tửu nhãn khai, là ngồi thiền song vẫn mở mắt…nghe hơi rượu là thế…

        Vừa lúc tế quán Phí lão mang bát đũa ra, Thánh Thán mà rằng:

       - Phí tào khang đã cơ công, thường kính nhường hậu kẻ sĩ này quá hậu hĩ. Nên bản chức lại nhớ đến chuyện phu nhân của danh tửu Lưu Linh.

       Cầm đấu rượu lên, Thánh Thán kể lể:

       - Lưu Linh học rộng, tài cao không hề màng danh lợi như…Phí quân đây. Lưu Linh uống rượu triền miên, phu nhân thấy chồng uống nhiều quá nên can ngăn. Lưu Linh xin vợ được uống một lần cho say khướt, rồi chừa. Lưu Linh khấn trước bàn thờ:

       Trời sinh Linh này
       Lừng danh kẻ say
       Mỗi lần một hộc
       Năm đấu đưa cay
       Lời can của vợ
       Ngang trời gió bay...

       Khấn xong, uống say mèm, lăn ra ngủ. Ngủ dậy, Lưu Linh viết Tửu đức tụng được coi như một áng danh văn về rượu trong văn học Tửu thi, thưa Phí tào khang.

       Đột nhiên Thánh Thán bảo: nhất tâm tưởng ngật áp nhục. Nghe lạ! Bèn hỏi? Thì được biết Thánh Thán đây tơ tưởng đến thịt vịt từ lâu. Trả lời xong, Thánh Thán đổi thế ngồi chồm hổm, hai chân trước lom khom chống đất, lưng gù gù. Phí lão dằn bụng không đặng! Bèn vấn nữa. Thánh Thán đáp: lạn hà mô tưởng ngật áp nhục là…là con cóc đang mơ tưởng thịt vịt đó.

       Hiểu ý, tiện nội mang thịt vịt luộc ra…Phí lão nói tế quán xuống bếp bê đĩa tiết canh lên. Có tiết canh là có chuyện…Chuyện là có con ruồi đậu trên đĩa tiết canh. Thánh Thán bảo: “Mở cửa sổ cho ruồi bay ra, chẳng sướng lắm ru?”. Thế là Phí lão đứng dậy đi mở cửa… Vừa về chỗ, Phí lão bắt gặp Thánh Thán mặt nhăn quéo, gầm gừ nhìn đĩa tiết canh đỏ hoét, trông phát khiếp! Thánh Thán thầm cho rằng người An Nam ăn tiết canh vịt cả 4000 năm văn hiến nào có chết ai đâu? Nên nhắm mắt, nhắm mũi múc một thìa tiết canh ăn bừa chẳng thống khóai tí nào. Nhưng mồm miệng vẫn…“Hảo a. Hảo a”.

        Kim Thánh Thán tiếp.

       - Đang uống rượu với bạn hào sĩ, tôi đã nửa say, do dự không biết nên uống nữa hay ngừng. Một tửu đồng đứng bên, hiểu ý mang rượu ra… Chẳng cũng khoái lắm ru?

        Nghe mà cảm khái quá thể, Phí lão bỏ xuống bếp vác vại rượu lên và ớ ra Thánh Thánh…biến mất. Dòm ra cửa. Cửa mở. Ở cái bu cửa: Cây gậy tre rút đất cũng…biến mất luôn. Bỗng dòm thấy tờ giấy hoa tiên. Bèn mở ra đọc: ngật hoàn liễu tựu tẩu, hiểu Nôm là hốc no rồi cút.

       Thấy sự thể vậy, tiện nội chỉ bài vị viết “Lưu Linh, người đời Tấn mất năm 270”. Phí lão lõ mắt dòm bức tranh truyền thần, trộm thấy Thánh Thánh i xì Lưu Linh.

      ***


Cả ngàn năm sau Sử ký tân biên của Tư Mã Thiên hiệu đính rằng nay hao tổn tâm sức bởi lẽ Tửu sử tam sao thất bản vì vậy ít ai hay Lưu Linh lặn lội trong bể hoạn, nên phải gánh chịu nguy cơ nổi chìm như sau:

Vốn dĩ Lưu Linh tiên sinh đại nhân lấy trời đất làm một buổi, muôn năm làm chốc lát, lấy mặt trăng, mặt trời làm cửa ngõ, lấy thiên hạ làm đường: Đi không thấy vết xe, ở không nhà cửa, màn trời, chiếu đất, thích thế nào làm thế. Lúc ở nâng chén, cầm bầu, không thèm biết đến sự đời gì nữa.


Cùng thời có Phí lão gia, xưa thật là xưa là hậu duệ của Phí Trường Phòng, quê gốc làng Tìm, phủ Thái Bình. Thưở sinh thời Phí lão lận đận con đường họan lộ rút cuộc chỉ là ông đồ bát nháo nên bất đắc chí không thiết gì thi cử nữa, tiến vi quan thối vi sư. Phí lão gia an phận thủ thường, chẳng màng đến mài mực ra mà kiếm gạo. Phí lão gia cứ vạn sự giai không, cứ nằm co với mo cơm tấm, ấm ổ rơm là đủ.

       Phí lão gia tự cho mình là bậc nho giả sinh bất phùng thời. Kịp đến tuổi tứ thập nhi bất hoặc, ngỡ không còn gì huyễn hoặc nữa. Bỗng dưng Phí lão gia lững thững phong kiếm quy điền, đóng cửa tạ khách, mượn hồ trường, lấy chữ nghĩa làm thú vui ẩn dật với: “Trời đất sinh ra rượu với văn - Không văn không rượu sống như thừa”.

        Nghe hơi nồi chõ tiên sinh họ Lưu như thế bèn cho người vời đến. Phủ trên huyện dưới xôn xao mà rằng nếu có hai kỳ tửu gặp nhau: Họ sẽ uống nghiêng đình đổ quán, uống cho nghiêng trời lệch đất. Rượu sẽ ngập sông, tràn ngang núi. Tửu khí ngất trời, mây không có chỗ ẩn thân. Âm khí thối đất, cỏ ba niên chẳng ngóc đầu lên nổi thì trên là trời, dưới là đất thế nào cũng kẻ còn người mất.

       Khi rày, tiên sinh họ Lưu xem Phí lão như con tò vò, con sâu róm mà thôi. Bởi lẽ tiên sinh có tài uống hàng trăm hộc mà không say nên có hiệu là Túy thánh Lưu Linh. Ấy vậy mà vừa nốc xong vại rượu Vân hương mỹ tửu, Túy thánh Lưu Linh gục xuống thổ huyết mà…thác.

       Lưu Linh tiên sinh thường ngồi trên xe trâu, chở theo vò rượu lớn, sai người vác cuốc theo bảo nếu ông chết ở đâu chôn ở đấy. Vì vậy Phí lão gia…hạ thổ tiên sinh ngay tại Trúc gia trang. Trên mộ bia, Phí lão gia cho khắc Điếu cổ hoài kim về bạn hồ tửu:

Họ Lưu lãng tử chẳng nên tài
Vác cuốc “chết đâu chôn đó ngay”
Say khướt đã coi ngang vạn vật
Chết khô chi bận chút hình hài

         Lưu Linh sống đời Tấn, tên Bá Luân, tự Nguyễn Lãng, dối giăng cho con…

         - Hỡi con: hãm tiết canh vịt nhớ hai đấu “xi-dầu”, bốn đấu Thiệu Hưng hắc tửu. Nếu phép này được lưu truyền cho hậu thế thì ta còn hận gìPhí quân nữa.

 

                                                                                           Hút-tân, Trúc gia trang

                                                                                               Giáp Thân 2004

                                                                                      Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

                                                                                          (thêm bớt 2015, 2024)

                                                                                          

Nguồn: Nguyễn Tuân, Thiều Chửu, Nguyễn Dư

Bình Nguyên Lộc, Phạm Lưu Vũ, Nguyễn Văn Hưởng

  

Vẫn Còn Mùa Xuân - Thơ Nhạc :Sông Thu,Lê Hửu Nghĩa và các Thi Hửu

Vẫn Còn Mùa Xuân ( Thủ Vỹ Ngâm ) Vui nhìn trước cửa nở đào mai Dĩ vãng đôi ta lắm chuyện dài Hãy hưởng tình Xuân quên quá khứ Rồi chờ giấc m...