Thơ lục bát
- Định-nghĩa:
Thơ lục bát là thể thơ thuần túy
cuả người Việt-nam. Bài thơ bắt đầu bằng câu sáu chữ và chấm dứt bằng câu tám
chữ. Thơ lục bát dùng để viết truyện.
Thí dụ:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín
chiều
(Ca dao)
- Cách gieo vần:
Chữ thứ sáu của câu sáu chữ phải vần với chữ thứ sáu của câu tám chữ và
chữ thứ tám của câu tám phải vần với chữ thứ sáu
của câu sáu tiếp theo và cứ thế cho đến
cuối bài.
Thí dụ:
Đầu lòng hai ả
tú nga
Thuý Kiều là chị em là
Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẽ mười phân vẹn mười
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
- Luật bằng trắc:
Vần bằng (B)
gồm những chữ có dấu huyền hay không
dấu.
Vần trắc (T)
gồm những chữ có dấu sắc, dấu hỏi, và
dấu ngã.
Theo đúng luật
thì câu lục và câu bát phải như sau:
BB TT BB
BB TT BB TB
Thí dụ:
Rồng vàng tắm
nước ao tù
B B
T T B
B
Người khôn ở
với người ngu bực mình
B B
T T B B
T B
(Ca dao)
Vì đúng luật
rất là khó nên nhà thơ chỉ theo luật “ Nhất Tam Ngũ bất luận, Nhì Tứ Lục phân
minh 一 三 五 不 論, 二 四 六 分 明”
nghĩa là chữ thứ nhất, chữ thứ ba, chữ thứ năm không cần đúng luật và chữ thứ
hai, chữ thứ tư, chữ thứ sáu và chữ thứ
tám phải theo đúng luật.
Thí dụ:
Nếu tôi tái thế
làm người
B T B
Nguyện làm thầy
giáo trọn đời kiếp sau
B
T B B
(Trần-Lâm Phát)
Mặc dù chữ thứ sáu và chữ thứ tám đều là vần bằng
nhưng nó bắt buộc phải khác thanh: nếu chữ thứ sáu (yêu vận) không dấu (phù bình
thanh) thì chữ thứ tám (cước vận) phải dấu huyền (tầm bình thanh) hoặc ngược
lại.
Thí dụ:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ
mệnh khéo là ghét nhau
(Truyện Kiều,
Nguyễn Du)
Bầu ơi thương
lấy bí cùng
Tuy rằng khàc
giống nhưng chung một giàn
(Ca dao)
Khi nào câu 6 chia làm 2 đoạn dài bằng nhau thì chữ
thứ 2 có thể là vần trắc.
Thí dụ:
Dù mặt lạ, đã làm quen
T T B
(Truyện Bích câu kỳ ngộ)
Virginia
ngày 18 tháng 9 năm 2007
Trần-Lâm
Phát
(ảnh:vulieu.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét