Thơ song thất lục
bát
- Định-nghĩa:
Thơ song thất lục bát là thể thơ
thuần tuý cuả người Việt-nam. Bài thơ
bắt đầu bằng hai câu bảy chữ, kế tiếp câu sáu chữ và chấm dứt bằng câu tám chữ.
Thí dụ:
Thuở
lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi
ngày về, ước nẻo quyên ca.
Nay
quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
(Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điễm?)
Thơ song thất lục bát là ngâm khúc
diễn tả tình cảm trong lòng về buồn, đau, sầu, thương, oán, giận.
- Cách gieo vần:
Chữ cuối cùng của
câu bảy thứ nhất phải vần với chữ thứ năm của câu bảy thứ hai và đều là vần trắc.
Chữ cuối của câu
bảy thứ hai phải vần với chữ cuối của câu sáu chữ, đều là vần bằng.
Chữ cuối của
câu sáu chữ phải vần với chữ thứ sáu của câu tám chữ và chữ cuối của câu tám
chữ phải vần với chữ thứ 5 của câu 7 chữ kế tiếp nếu có.
Trong câu 8 chữ; mặc dù chữ thứ sáu và chữ thứ tám
đều là vần bằng nhưng nó bắt buộc phải khác thanh: nếu chữ thứ sáu (yêu vận)
không dấu (phù bình thanh) thì chữ thứ tám (cước vận) phải dấu huyền (tầm bình
thanh) hoặc ngược lại.
Câu
7: 1 2 3 4 5 6 7(T)
Câu 7:
1 2 3 4 5(T) 6 7(B)
Câu 6:
1 2 3 4 5 6(B)
Câu 8; 1 2 3 4
5 6(B) 7 8(B)
Câu 7: 1 2 3 4 5(B)
6 7(T
Thí dụ:
Trải vách quế
gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạng ngắt như đồng,
Oán chi những
khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc
nằm trong má đào
Duyên đã may cớ
sao lại rủi
Nghĩ nguồn cơn
dở dói sao đang
Vì đâu nên nỗi
dỡ damg
Nghĩ mình, mình
lại them thương nỗi mình
(Cung oán ngâm
khúc - Nguyễn Gia Thiều)
Ngoài ra song
thất lục bát còn phải theo yêu vận (yv) và cước vận. (cv) Trừ câu 6 chữ, 2 câu
7 chữ và câu 8 chữ luôn luôn có 2 vận: 1 yêu vận (ở trong) và 1 cước vận (ở cuối).
Thí dụ:
Gà eo óc gáy sương năm trống (cvT)
Hoè phất phơ rủ bóng (yvT) bốn bên
(cvB)
Khắc giờ đằng đẵng như niên (cvB)
Mối sầu dằng dặc tựa miền(yvB) bể
xa (cvB)
Hương gượng đốt, hồn đà (yvB) mê
mải (cvT)
Gương gượng soi, lệ lại (cvT) chứa
chan (yvB)
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn (yvB)
Dây uyên kinh đứt, phím loan (yvB)
ngại chùng (yvB)
- Luật bằng trắc:
Vần bằng (B)
gồm những chữ có dấu huyền hay không
dấu.
Vần trắc (T)
gồm những chữ có dấu sắc, dấu hỏi, và
dấu ngã.
Theo đúng luật
thì ngoại trừ chữ thứ nhất của 2 câu bảy chữ; còn các chữ còn lại của câu bảy
chữ, câu 6 chữ và câu 8 chữ phải như sau:
XTTBBTT
XBBTTBB
BB TT BB
BB TT BB TB
Chú thích: X:
nghĩa là T hay B cũng được.
Thí dụ:
Cầu thệ thủy
ngồi trơ cổ độ
X T T
B B T T
Quán thu phong đứng rũ tà huy
X B
B T T
B B
Phong trần đến cả sơn khê
B B
T T
B B
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
B B T
T B B
T B
(Cung oán ngâm
khúc - Nguyễn Gia Thiều)
Vì đúng luật
rất là khó nên nhà thơ chỉ theo luật cho chữ thứ ba, thứ năm và thứ bảy cho câu
song thất; còn câu lục bát thì theo lệ “ Nhất Tam Ngũ bất luận, Nhì Tứ Lục phân minh 一 三 五 不 論, 二 四 六 分 明” nghĩa là chữ thứ nhất, chữ thứ ba, chữ thứ năm không cần
đúng luật và chữ thứ hai, chữ thứ tư,
chữ thứ sáu và chữ thứ tám phải theo đúng luật.
X X T
X B X T
X X B X T X B
X B X T X B
X B X T X B X B
Thí dụ:
Trên biển số mười
ba đếm kỹ
X X T X B X T
Ngày thuyền trôi đến
chỉ Bình Tuy
X X B X T X B
Ước mong chưa được
cái gì
X B X
T X B
Lại mang vạ đến một
khi kéo về
X B X
T X
B X B
(Hành trình tự do -Trần-Lâm
Phát)
Ngoài ra nếu hai câu bảy chữ sóng nhau (đối hay không
đối) thì chữ thứ hai và chữ thứ ba của câu bảy thứ nhất có thể chuyển từ TT ra
BB
Thí dụ hai câu đối nhau:
Chàng thì đi
(BB) cõi xa mưa gió
Thiếp lại về buồng cũ chiếu chăn
(Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điễm?)
Thí dụ hai câu không đối nhau:
Chàng thì đi (BB) vào nơi gió cát
Đêm trăng này nghĩ mát phương nao
?
(Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điễm )
Virgina,
ngày 28 tháng 9 năm 2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét