Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

Thơ Đường Luật - Trần Lâm Phát


Thơ Đường luật

  1. Định-nghĩa:

Thơ Đường luật ( ) là thể thơ thuần tuý của  người Trung hoa, nó bắt đầu từ đời Đường (618-907) và có khi còn gọi là cận thể ( ). Nếu bài thơ gồm có 4 câu  thì gọi là tứ tuyệt và nếu gồm có 8 câu thì gọi là bát cú.  Trong bài thơ nếu mỗi câu có 5 chữ  thì gọi là ngũ ngôn và nếu mỗi câu có 7 chữ thì gọi là thất ngôn.
Vì thế thơ Đường có thể phân ra làm 2 loại:
·         Tứ tuyệt gồm có ngũ ngôn hoặc thất ngôn tứ tuyệt
·         Bát cú gồm có ngũ ngôn hoặc thất ngôn bát cú

Thí dụ: thất ngôn tứ tuyệt

                                       滿  
                Nguyệt lạc    ô      đề    sương  mãn  thiên
                 
                Giang phong ngư  hoả    đối     sầu    miên
                 
                Cô      tô    thành ngoại   hàn    sơn     tự
                 
Dạ    bán  chung thanh   đáo   khách thuyền
         
                                                ( : )
                                                                        (Trương Kế: Phong Kiều Dạ Bạc)

Bài viết này chú tâm đến thể thất ngôn bát cú.


  1. Cách gieo vần:

Thất ngôn bát cú là thể thơ Đường thông dụng nhất. Bài thơ phải có 5 vần  giống nhau (độc vận) và thông thường là vần bằng. Chữ cuối của câu một phải vần với chữ cuối của các câu chẵn (2, 4, 6, 8).

  1. Luật bằng trắc:

Vần bằng (B) gồm những chữ có dấu  huyền hay không dấu.
Vần trắc (T) gồm những chữ có dấu  sắc, dấu hỏi, dấu ngã và dấu nặng.

Muốn biết bài thơ thuộc thể loại nào, đọc giả phải nhìn vào chữ thứ nhì của câu một. Nếu chữ ấy là vần bằng thì bài thơ thuộc luật bằng và ngược lại chữ ấy là vần trắc thì bài thơ thuộc luật trắc.
Chữ thứ 7 câu 1 định loại vần cho bài thơ. Nếu là vần bằng thì bài thơ vần bằng; nếu  là vần trắc thì bài thơ vần trắc.


Luật bằng
x: không cần theo luật
Luật trắc
x: không cần theo luật

Chính luật
Thông luật
Chính luật
Thông luật
BBTTTBB
xBxTxBx
TTBBTTB
xTxBxTx
TTBBTTB
xTxBxTx
BBTTTBB
xBxTxBx
TTBBBTT
xTxBxTx
BBTTBBT
xBxTxBx
BBTTTBB
xBxTxBx
TTBBTTB
xTxBxTx
BBTTBBT
xBxTxBx
TTBBBTT
xTxBxTx
TTBBTTB
xTxBxTx
BBTTTBB
xBxTxBx
TTBBBTT
xTxBxTx
BBTTBBT
xBxTxBx
BBTTTBB
xBxTxBx
TTBBTTB
xTxBxTx


Bài thơ  Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế thuộc luật trắc, vần bằng vì  trong câu một, chữ lạc là vần trắc và chữ thiên là vần bằng.

Bài thơ Qua đèo ngang thuộc luật trắc (chữ thứ 2 câu 1: “tới” vần T) và vần bằng (chữ thứ 7 câu 1 “tà” vần B ).

Vì đúng luật rất là khó nên nhà thơ chỉ theo thông luật “Nhất Tam Ngũ bất luận, Nhì Tứ Lục phân minh” nghĩa là chữ thứ nhất, chữ thứ ba, chữ thứ năm không cần đúng luật và chữ thứ hai, chữ thứ tư, chữ thứ sáu phải theo đúng luật.
                          
  1. Cách đối:

Có 2 cách đối: đối ý và đối chữ.
Đối ý là 2 ý tưởng chọi nhau.
Đối chữ là đối luật bằng trắc như vần bằng đối với vần trắc và phải cùng tự loại như danh từ đối với danh từ, tính từ đối với tính từ, trạng từ đối với trạng từ, động từ đối với động từ v.v.

Trong bài thơ bát cú Đường luật, câu 3 đối với câu 4 và câu 5 đối với câu 6.
Hãy quan sát bài Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan:

Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây xanh lá đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mõi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Câu 3 và câu 4 đối nhau về luật bằng trắc và loại tự :
Lom khom (BB) vs Lác đác (TT)
dưới núi (TT) vs bên sông (BB)
tiều vài chú (BBT) vs rợ mấy nhà (TTB)

Câu 5 và câu 6 cũng tương tự

5.      Niêm:

Niêm là sự liên lạc về âm luật của 2 câu thơ.
Hai câu thơ trong thơ Đường niêm với nhau khi chữ thứ nhì của 2 câu cùng 1 luật bằng trắc: bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc.
Câu 1 niêm với câu 8
Câu 2 niêm với câu 3
Câu 4 niêm với câu 5
Câu 6 niêm với câu 7

Trong bài Qua đèo ngang :
Chữ thứ nhì trong câu 1 và câu 8 : tới (T) niêm với mảnh (T)
Chữ thứ nhì trong câu 2 và câu 3 : cây (B) niêm với khom (B)
Chữ thứ nhì trong câu 4 và câu 5 : đác (T) niêm với nước (T)
Chữ thứ nhì trong câu 6 và câu 7 : nhà (B) niêm với chân (B)
Nếu bài thơ không niêm với nhau thì gọi là thất niêm.

6.      Bố cục:

Bài thơ bát cú có 4 phần : đề, thực, luận, kết.
Đề gồm phá đề (câu 1) và thừa dề (câu 2) dùng để mở đầu và đi vào bài.
Thực còn gọi là trạng (câu 3, câu 4) dùng để giải thích đầu bài cho rõ ràng .
Luận (câu 5 và câu 6) dùng để bàn bạc cho rộng nghĩa đầu bài.
Kết (câu 7 và câu 8) dùng để tóm lại ý nghĩa toàn bài.

                                                Virgina, ngày 28 tháng 9 năm 2007

                                                Trần-Lâm Phát
(tác giã đeo kính )

                                               



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...