THƠ
ĐƯỜNG LUẬT
Cách Gieo Vần, Nguyên Tắc Đối,
Luật Bằng Trắc và Cách Họa
_______________________
_______________________
Thơ Đường Luật còn có những tên gọi khác nhau như: Thơ Đường, Đường Thi, Thất Ngôn Bát Cú và Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Thơ Đường Luật có 2 loại: Tứ Tuyệt (tức mỗi câu có 7 chữ và mỗi bài có 4 câu) và Bát Cú (tức mỗi câu có 7 chữ và mỗi bài có 8 câu).
A- Thể Thất Ngôn Bát Cú:
I- Cách Gieo Vần:
Thơ Đường
Luật có luật lệ nhất định của nó, bạn không thể biến chế một cách khác được.
Cách gieo vần như sau:
- Suốt bài thơ chỉ gieo theo một vần mà thôi. Ví dụ: Vần ơi thì đi với ơi, vần tâm thì đi với tâm hoặc tầm.
- Trong bài thơ có 5 chữ vần được gieo ở cuối câu đầu (câu số 1) và ở cuối các câu chẵn (2, 4, 6 và 8). Ngoài việc các chữ cuối của câu 1,2,4,6,8 phải cùng một vần ra, cả 5 chữ mang vần đó phải khác nhau, trừ khi cùng chữ nhưng khác nghĩa (Ví dụ: dặm trường và mái trường hay trái mơ và giấc mơ…)
- Gieo vần thì phải hiệp vận (tức cho đúng vận của nó). Ví dụ: hương, thương, trường... Nếu gieo vần thưa với thây thì bị lạc vận. Còn nếu gieo vần không hiệp với nhau thì gọi là cưỡng vận hay ép vận, chẳng hạn như: in với tiên.
II- Nguyên Tắc Đối:
- Suốt bài thơ chỉ gieo theo một vần mà thôi. Ví dụ: Vần ơi thì đi với ơi, vần tâm thì đi với tâm hoặc tầm.
- Trong bài thơ có 5 chữ vần được gieo ở cuối câu đầu (câu số 1) và ở cuối các câu chẵn (2, 4, 6 và 8). Ngoài việc các chữ cuối của câu 1,2,4,6,8 phải cùng một vần ra, cả 5 chữ mang vần đó phải khác nhau, trừ khi cùng chữ nhưng khác nghĩa (Ví dụ: dặm trường và mái trường hay trái mơ và giấc mơ…)
- Gieo vần thì phải hiệp vận (tức cho đúng vận của nó). Ví dụ: hương, thương, trường... Nếu gieo vần thưa với thây thì bị lạc vận. Còn nếu gieo vần không hiệp với nhau thì gọi là cưỡng vận hay ép vận, chẳng hạn như: in với tiên.
II- Nguyên Tắc Đối:
Các
câu đối với nhau phải thật chỉnh, cả về ý, tình, và thể loại từ ngữ, v.v... Thể
loại từ ngữ tức tính từ phải đối với tính từ, danh từ phải đối với danh từ,
động từ phải đối với động từ, v.v...
Trong bài thơ có 4 phần: Đề (gồm có Phá đề và Thừa đề) Thực hoặc Trạng, Luận, và Kết.
1. Đề gồm có hai phần:
- Phá đề (câu thứ 1):
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
- Thừa đề (câu thứ 2):
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
2. Thực hoặc trạng (câu thứ 3 và câu thứ 4): Hai câu này phải đối với nhau.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Ghi chú: Lom khom đối với lác đác (trạng tự) và bằng đối với trắc. Tiều đối với chợ (danh từ) và bằng đối với trắc. Chú đối với nhà (danh từ) và trắc đối với bằng.
3. Luận (câu thứ 5 và câu thứ 6): Luận có nghĩa là luận bàn. Hai câu này bàn bạc
thêm về nội dung của bài thơ, về phong cảnh hay về tình cảm. Hai câu này phải đối với nhau.
Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia.
Ghi chú: Nhớ đối với thương (động từ) và trắc đối với bằng. Nước đối với nhà (danh từ) và trắc đối với bằng. Đau lòng đối với mỏi miệng (trạng từ) và bằng đối với trắc. Con quốc quốc đối với cái gia gia (danh từ) và trắc đối với bằng.
Trong bài thơ có 4 phần: Đề (gồm có Phá đề và Thừa đề) Thực hoặc Trạng, Luận, và Kết.
1. Đề gồm có hai phần:
- Phá đề (câu thứ 1):
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
- Thừa đề (câu thứ 2):
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
2. Thực hoặc trạng (câu thứ 3 và câu thứ 4): Hai câu này phải đối với nhau.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Ghi chú: Lom khom đối với lác đác (trạng tự) và bằng đối với trắc. Tiều đối với chợ (danh từ) và bằng đối với trắc. Chú đối với nhà (danh từ) và trắc đối với bằng.
3. Luận (câu thứ 5 và câu thứ 6): Luận có nghĩa là luận bàn. Hai câu này bàn bạc
thêm về nội dung của bài thơ, về phong cảnh hay về tình cảm. Hai câu này phải đối với nhau.
Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia.
Ghi chú: Nhớ đối với thương (động từ) và trắc đối với bằng. Nước đối với nhà (danh từ) và trắc đối với bằng. Đau lòng đối với mỏi miệng (trạng từ) và bằng đối với trắc. Con quốc quốc đối với cái gia gia (danh từ) và trắc đối với bằng.
4. Kết (câu thứ 7
và câu thứ 8): Hai câu kết không nhất thiết phải đối nhau, nhưng phải giữ luật
bằng trắc.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Qua Đèo Ngang—Bà Huyện Thanh Quan)
Ghi chú: Dừng chân là vần bằng đối với một mảnh là vần trắc; đứng lại là vần trắc đối với tình riêng là vần bằng; nước là vần trắc đối với ta là vần bằng.
III- Luật Bằng Trắc:
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Qua Đèo Ngang—Bà Huyện Thanh Quan)
Ghi chú: Dừng chân là vần bằng đối với một mảnh là vần trắc; đứng lại là vần trắc đối với tình riêng là vần bằng; nước là vần trắc đối với ta là vần bằng.
III- Luật Bằng Trắc:
Luật Bằng Trắc gồm có Thanh, Luật, và Niêm.
1. Thanh: Gồm có Thanh Bằng và Thanh Trắc.
a) Thanh Bằng-là những tiếng hay chữ không có dấu (như: minh, lan, thanh, trinh...) và những tiếng hay chữ có dấu huyền (vi’ dụ như: mà, hoàng, thành, trình...)
b) Thanh trắc: Là những tiếng hay chữ có dấu sắc (') dấu hỏi (?) dấu ngã (~) và dấu nặng (.). Ví dụ: Nhớ, tưởng, lữ, vọng …
2. Luật: Thơ bát cú làm theo hai luật: Luật Bằng và Luật Trắc.
a) Luật Bằng: Chữ thứ hai ở câu đầu thuộc vần Bằng. Ví dụ:
Vu vơ dạo bước ngắm trời xinh,
Luật Bằng Vần Bằng-Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B = Bằng, T = Trắc và V = Vần.
1. Thanh: Gồm có Thanh Bằng và Thanh Trắc.
a) Thanh Bằng-là những tiếng hay chữ không có dấu (như: minh, lan, thanh, trinh...) và những tiếng hay chữ có dấu huyền (vi’ dụ như: mà, hoàng, thành, trình...)
b) Thanh trắc: Là những tiếng hay chữ có dấu sắc (') dấu hỏi (?) dấu ngã (~) và dấu nặng (.). Ví dụ: Nhớ, tưởng, lữ, vọng …
2. Luật: Thơ bát cú làm theo hai luật: Luật Bằng và Luật Trắc.
a) Luật Bằng: Chữ thứ hai ở câu đầu thuộc vần Bằng. Ví dụ:
Vu vơ dạo bước ngắm trời xinh,
Luật Bằng Vần Bằng-Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B = Bằng, T = Trắc và V = Vần.
Luật Bằng Vần Bằng như sau:
Chữ cuối câu 1, 2, 4, 6 và 8 phải là vần BẰNG.
1. B B T T T B B (V)
2. T T B B T T B (V)
3. T T B B B T T
4. B B T T T B B (V)
5. B B T T B B T
6. T T B B T T B (V)
7. T T B B B T T
8. B B T T T B B (V)
Ví dụ: Mời cô đến với góc vườn thơ,
Khánh tiếng lung lay gót nhẹ chờ.
Thi vận mực tươi hoa khẽ hé,
Họa âm giấy liễng nhạc đường tơ.
Nghe mưa tí tách buông màn khói,
Thử gió vi vu thoảng giấc mơ.
Một cách gieo hồn đùa lãng tử
Bài này chớ để ngó chơ vơ.
(Nhã Uyên)
b) Luật Trắc: Chữ thứ hai ở câu đầu thuộc vần Trắc. Ví dụ:
Luyến nhớ trời quê buổi nắng vàng,
1. B B T T T B B (V)
2. T T B B T T B (V)
3. T T B B B T T
4. B B T T T B B (V)
5. B B T T B B T
6. T T B B T T B (V)
7. T T B B B T T
8. B B T T T B B (V)
Ví dụ: Mời cô đến với góc vườn thơ,
Khánh tiếng lung lay gót nhẹ chờ.
Thi vận mực tươi hoa khẽ hé,
Họa âm giấy liễng nhạc đường tơ.
Nghe mưa tí tách buông màn khói,
Thử gió vi vu thoảng giấc mơ.
Một cách gieo hồn đùa lãng tử
Bài này chớ để ngó chơ vơ.
(Nhã Uyên)
b) Luật Trắc: Chữ thứ hai ở câu đầu thuộc vần Trắc. Ví dụ:
Luyến nhớ trời quê buổi nắng vàng,
Luật Trắc Vần Bằng như sau:
Chữ cuối câu 1, 2, 4, 6, 8 cũng là vần BẰNG.
1.T T B B T T B (V)
2.B B T T T B B (V)
3.B B T T B B T
4.T T B B T T B (V)
5.T T B B B T T
6.B B T T T B B (V)
7.B B T T B B T
8.T T B B T T B (V)
Ví dụ:
Văng VẲNG tai NGHE tiếng KHÓC gì?
Thương CHỒNG nên KHÓC tỉ TÌ tị
Ngọt BÙI, thiếp NHỚ mùiCAM thảo,
Cay ĐẮNG, chàng ƠI, vị QUẾ chị
Thạch NHŨ, trần BÌ, sao ĐỂ lại,
Quy THÂN, liên NHỤC, tẩm MANG đị
Dao CẦU, thiếp BIẾT trao AI nhỉ?
Sinh KÝ, chàng ƠI, tử TẮC quỵ
(Bà Lang Khóc Chồng—Hồ Xuân Hương)
Chú Thích:
1.T T B B T T B (V)
2.B B T T T B B (V)
3.B B T T B B T
4.T T B B T T B (V)
5.T T B B B T T
6.B B T T T B B (V)
7.B B T T B B T
8.T T B B T T B (V)
Ví dụ:
Văng VẲNG tai NGHE tiếng KHÓC gì?
Thương CHỒNG nên KHÓC tỉ TÌ tị
Ngọt BÙI, thiếp NHỚ mùi
Cay ĐẮNG, chàng ƠI, vị QUẾ chị
Thạch NHŨ, trần BÌ, sao ĐỂ lại,
Quy THÂN, liên NHỤC, tẩm MANG đị
Dao CẦU, thiếp BIẾT trao AI nhỉ?
Sinh KÝ, chàng ƠI, tử TẮC quỵ
(Bà Lang Khóc Chồng—Hồ Xuân Hương)
Chú Thích:
Những chữ CAPITALIZED (chữ thứ 2, 4 và 6) đều phải theo đúng luật,
còn những chữ khác (trừ chữ ở cuối câu) có thể không cần phải theo luật. Mẹo để
nhớ:
Nhất (chữ thứ 1), tam (chữ thứ 3), ngũ (chữ thứ 5) bất luận. (không cần theo luật)
Nhất (chữ thứ 1), tam (chữ thứ 3), ngũ (chữ thứ 5) bất luận. (không cần theo luật)
Nhị (chữ thứ 2), tứ (chữ thứ 4), lục (chữ thứ 6) phân minh (phải đúng luật)
Nghĩa là chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật; còn chữ thứ hai, thứ tư và thứ sáu thì bắt buộc phải theo luật (phân minh). Nếu không theo luật thì gọi là thất luật.
3. Niêm: Những chữ phải đi cặp với nhau và dính với nhau.
Ví du: Luật Bằng
Câu 1 niêm với câu 8
1.B B T T T B B (V)
8.B B T T T B B (V)
Câu 2 niêm với câu 3
2.T T B B T T B (V)
3.TT B B B T T
Câu 4 niêm với câu 5
4.B B T T T B B (V)
5.B B T T B B T
Câu 6 niêm với câu 7
6.T T B B T T B (V)
7.T T B B B T T
Nghĩa là chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật; còn chữ thứ hai, thứ tư và thứ sáu thì bắt buộc phải theo luật (phân minh). Nếu không theo luật thì gọi là thất luật.
3. Niêm: Những chữ phải đi cặp với nhau và dính với nhau.
Ví du: Luật Bằng
Câu 1 niêm với câu 8
1.B B T T T B B (V)
8.B B T T T B B (V)
Câu 2 niêm với câu 3
2.T T B B T T B (V)
3.TT B B B T T
Câu 4 niêm với câu 5
4.B B T T T B B (V)
5.B B T T B B T
Câu 6 niêm với câu 7
6.T T B B T T B (V)
7.T T B B B T T
Ví dụ: Luật Trắc
Câu 1 niêm với câu 8
1. T T B B T T B (V)
8. T T B B T T B (V)
Câu 2 niêm với câu 3
2. B B T T T B B (V)
3. B B T T B B T
Câu 4 niêm với câu 5
4. T T B B T T B (V)
5. T T B B B T T
Câu 6 niêm với câu 7
6. B B T T T B B (V)
7. B B T T B B T
Cũng có trường hợp nhà thơ làm sai luật, thay vì đang ở Luật Bằng thì lại đổi sang Luật Trắc. Vì Niêm không đi với nhau nên gọi là Thất Niêm.
Ví dụ: Dùng bài thơ Cảnh Làm Lẽ (Lấy Chồng Chung) của Hồ Xuân Hương (đúng niêm luật) để đổi sang thất niêm (xem chữ thứ 2):
Kẻ ĐẮP chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém CHA cái kiếp lấy chồng chung!
Năm THÌ mười họa, nên chăng chớ,
Một THÁNG đôi lần, có cũng không...
Cố ĐẤM ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm BẰNG làm mướn, mướn không công.
Thân NÀY ví biết dường này nhỉ,
Thà TRƯỚC thôi đành ở vậy xong.
Đổi thành thất niêm:
Kẻ ĐẮP chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém CHA cái kiếp lấy chồng chung!
Cố ĐẤM ăn xôi, xôi lại hỏng *** (thất niêm) ***
Cầm BẰNG làm mướn, mướn không công.
Năm THÌ mười họa, nên chăng chớ,
Một THÁNG đôi lần, có cũng không...
Thân NÀY ví biết dường này nhỉ,
Thà TRƯỚC thôi đành ở vậy xong.
Chú ý:
Câu 1 niêm với câu 8
1. T T B B T T B (V)
8. T T B B T T B (V)
Câu 2 niêm với câu 3
2. B B T T T B B (V)
3. B B T T B B T
Câu 4 niêm với câu 5
4. T T B B T T B (V)
5. T T B B B T T
Câu 6 niêm với câu 7
6. B B T T T B B (V)
7. B B T T B B T
Cũng có trường hợp nhà thơ làm sai luật, thay vì đang ở Luật Bằng thì lại đổi sang Luật Trắc. Vì Niêm không đi với nhau nên gọi là Thất Niêm.
Ví dụ: Dùng bài thơ Cảnh Làm Lẽ (Lấy Chồng Chung) của Hồ Xuân Hương (đúng niêm luật) để đổi sang thất niêm (xem chữ thứ 2):
Kẻ ĐẮP chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém CHA cái kiếp lấy chồng chung!
Năm THÌ mười họa, nên chăng chớ,
Một THÁNG đôi lần, có cũng không...
Cố ĐẤM ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm BẰNG làm mướn, mướn không công.
Thân NÀY ví biết dường này nhỉ,
Thà TRƯỚC thôi đành ở vậy xong.
Đổi thành thất niêm:
Kẻ ĐẮP chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém CHA cái kiếp lấy chồng chung!
Cố ĐẤM ăn xôi, xôi lại hỏng *** (thất niêm) ***
Cầm BẰNG làm mướn, mướn không công.
Năm THÌ mười họa, nên chăng chớ,
Một THÁNG đôi lần, có cũng không...
Thân NÀY ví biết dường này nhỉ,
Thà TRƯỚC thôi đành ở vậy xong.
Chú ý:
Dù chỉ đặt
sai có một câu (câu thứ 3) nhưng bị thất niêm toàn bài thơ. Thế mới biết luật
thơ Đường khắt khe biết dường nào!
Khi làm thơ Đường Luật thì phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không, dù bài thơ của bạn có nội dung hay mấy đi nữa thì cũng không thể chấp nhận được.
Như đã nêu ra ở trên là các câu đối với nhau phải thật chỉnh. Có điều là không bắt buộc phải từng chữ một đối nhau mà có thể đối theo cụm từ. Nếu 3 chữ tạo thành nhóm danh từ (ở câu 3 chẳn hạng) thì ở câu 4 cũng dùng 3 chữ cùng nhóm để đối lại:
Ví dụ:
Ngày vương mãi nhớ hương tình cũ,
Tháng quyện hoài mong bóng dáng xưa.
(Trích "Xóm Tịnh Chiều Luyến Nhớ"—Vân Hạc)
Ngày (danh từ, bằng) đối với tháng (danh từ, trắc)
vương (động từ, bằng) đối với quyện (động từ, trắc)
mãi (phó từ, trắc) đối với hoài (phó từ, bằng)
nhớ (động từ, trắc) đối với mong (động từ, bằng).
hương tình cũ (cụm danh từ) đối với bóng dáng xưa (cụm danh từ).
B.Thơ Tuyệt Cú:
Tuyệt cú theo nghĩa đen là ngắt câụ Là một thể thơ bốn câu (còn gọi là tứ tuyệt), có thể là cổ phong hoặc thơ luật, nhưng ý tứ, ý nghĩa phải trọn vẹn, sâu sắc. Cũng phải có mở có kết, có thể hiện nội dung chủ đề mình định nói.
Ví dụ:
Chim buồn lẻ bạn chốn thâm sơn,
Cánh ngã chao nghiêng ngắm nguyệt thường.
Én lạc cô phòng thương nắng hạ,
Diều đây lẻ phận nhớ thu đơn.
(Nguyễn Duy)
Lối làm thơ tuyệt cú có thể tuân theo luật bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối của ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Ở thể cổ phong, thơ tuyệt cú càng rộng rãi hơn, các câu thơ không cần đối, không phụ thuộc luật bằng trắc, miễn là ý tứ sâu sắc, lời đẹp, giầu âm điệu ..
Phong Kiều Dạ Bạc (Trương Kế )
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu mien.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Đêm thuyền đậu bến Phong Kiều (Bản dịch của Tản Đà):
Trăng tà, chiếc quạ kêu sương,
Lữa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
IV-Cách Họa Đường Thi:
Cao nhất trong Đường Thi là họa thơ với người khác. Khi họa một bài Đường Thi, người họa phải dùng lại các từ mang vần (chữ cuối của câu 1,2,4,6,8) của bài thơ muốn họa (gọi là bài XƯỚNG) và diễn tả theo ý thơ của mình. Bài họa nằm trong 3 loại tiêu biểu: Hoạ Vần, Họa Vần Đối Luật và Họa Nguyên Vận.
1) Họa Vần: Dĩ nhiên bài HỌA phải dùng lại vần của bài XƯỚNG, nhưng luật có thể thay đổi và ý nghĩa của bài Họa hoàn toàn khác với bài XƯỚNG.
Ví dụ như trong trường hợp VH dùng vần bài “Nhớ Nhà” của Bà Huyện Thanh Quan để làm bài “Cảnh Vật Ngày Xuân”:
Nhớ Nhà (Bà HTQ—Xướng)
Vàng tỏa non tây, bóng ác tà,
Ðầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Khi làm thơ Đường Luật thì phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không, dù bài thơ của bạn có nội dung hay mấy đi nữa thì cũng không thể chấp nhận được.
Như đã nêu ra ở trên là các câu đối với nhau phải thật chỉnh. Có điều là không bắt buộc phải từng chữ một đối nhau mà có thể đối theo cụm từ. Nếu 3 chữ tạo thành nhóm danh từ (ở câu 3 chẳn hạng) thì ở câu 4 cũng dùng 3 chữ cùng nhóm để đối lại:
Ví dụ:
Ngày vương mãi nhớ hương tình cũ,
Tháng quyện hoài mong bóng dáng xưa.
(Trích "Xóm Tịnh Chiều Luyến Nhớ"—Vân Hạc)
Ngày (danh từ, bằng) đối với tháng (danh từ, trắc)
vương (động từ, bằng) đối với quyện (động từ, trắc)
mãi (phó từ, trắc) đối với hoài (phó từ, bằng)
nhớ (động từ, trắc) đối với mong (động từ, bằng).
hương tình cũ (cụm danh từ) đối với bóng dáng xưa (cụm danh từ).
B.Thơ Tuyệt Cú:
Tuyệt cú theo nghĩa đen là ngắt câụ Là một thể thơ bốn câu (còn gọi là tứ tuyệt), có thể là cổ phong hoặc thơ luật, nhưng ý tứ, ý nghĩa phải trọn vẹn, sâu sắc. Cũng phải có mở có kết, có thể hiện nội dung chủ đề mình định nói.
Ví dụ:
Chim buồn lẻ bạn chốn thâm sơn,
Cánh ngã chao nghiêng ngắm nguyệt thường.
Én lạc cô phòng thương nắng hạ,
Diều đây lẻ phận nhớ thu đơn.
(Nguyễn Duy)
Lối làm thơ tuyệt cú có thể tuân theo luật bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối của ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Ở thể cổ phong, thơ tuyệt cú càng rộng rãi hơn, các câu thơ không cần đối, không phụ thuộc luật bằng trắc, miễn là ý tứ sâu sắc, lời đẹp, giầu âm điệu ..
Phong Kiều Dạ Bạc (Trương Kế )
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu mien.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Đêm thuyền đậu bến Phong Kiều (Bản dịch của Tản Đà):
Trăng tà, chiếc quạ kêu sương,
Lữa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
IV-Cách Họa Đường Thi:
Cao nhất trong Đường Thi là họa thơ với người khác. Khi họa một bài Đường Thi, người họa phải dùng lại các từ mang vần (chữ cuối của câu 1,2,4,6,8) của bài thơ muốn họa (gọi là bài XƯỚNG) và diễn tả theo ý thơ của mình. Bài họa nằm trong 3 loại tiêu biểu: Hoạ Vần, Họa Vần Đối Luật và Họa Nguyên Vận.
1) Họa Vần: Dĩ nhiên bài HỌA phải dùng lại vần của bài XƯỚNG, nhưng luật có thể thay đổi và ý nghĩa của bài Họa hoàn toàn khác với bài XƯỚNG.
Ví dụ như trong trường hợp VH dùng vần bài “Nhớ Nhà” của Bà Huyện Thanh Quan để làm bài “Cảnh Vật Ngày Xuân”:
Nhớ Nhà (Bà HTQ—Xướng)
Vàng tỏa non tây, bóng ác tà,
Ðầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một
bước càng ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là.
Mấy kẻ tình chung có thấu là.
Cảnh Vật Ngày Xuân (Vân Hạc—Họa vần)
Lụa thắm tung bay phất phới tà,
Vườn hồng rực rỡ bướm vờn hoa.
Xanh xanh khóm trúc xinh bờ dậu,
Trắng muốt cành lê đẹp góc nhà.
Trước ngõ mai đào chờ nắng xuống,
Bên thềm cúc lựu đón sương sa.
Hương trời sắc nước nên thơ quá,
Cảnh vật ngày Xuân quả thật là…
2) Họa Vần Đối Luật: Như tên gọi, bài HỌA dùng luật trái với bài XƯỚNG. Nếu bài Xướng gieo theo Luật Bằng thì bài Họa đi theo Luật Trắc và ngược lại.
Ví dụ:
Xuân Hứng (Hàn Mặc Tử—Luật Bằng):
Non sông ngàn dặm ngắm càng xinh,
Ừ tết năm nay thật hữu tình.
Pháo nổ nổ tan luồng thất nghiệp,
Xuân về về ghẹo khách ba sinh.
Hoa tươi sánh với thiên kiều gái,
Cảnh đẹp dường như thủy mặc tranh.
Cao hứng đã toan cầm bút vịnh,
Đào nguyên đâu lại thoảng qua mành.
Xuân Mộng (Họa của Vân Hạc—Luật Trắc)
Cảnh vật khoe mình dưới nắng xinh,
Kìa Xuân đã đến đượm hương tình.
Tưng bừng pháo nổ mừng hồi phục,
Rộn rã lời chào chúc tái sinh.
Vạn bướm hòa màu tô mộng cảnh,
Ngàn hoa trải sắc vẽ mơ tranh.
Bên song thiếu nữ cười duyên dáng,
Cứ ngỡ bồng lai đứng tựa mành.
3) Họa Nguyên Vận: Ngoài việc giữ cùng luật, bài họa phải có chủ đề và ý nghĩa giống như bài Xướng.
Ví dụ:
Trời Quê Luyến Nhớ (Bài Xướng của Vân Hạc)
Luyến nhớ trời quê buổi nắng vàng,
Đàn em hớn hở hát reo vang.
Bờ xa thấp thoáng đò đầy chuyến,
Bến cũ xôn xao chợ lắm hang.
Bát ngát nương dâu dài cuối xóm,
Bao la ruộng lúa ngập thôn trang.
Tha phương vọng mãi mùa Xuân trước,
Viễn xứ miên man
nỗi nhớ làng.
NHỚ QUÊ XƯA (Hoạ by Bích Trân)
Đàn bướm vờn hoa dưới nắng vàng,
Hè về phượng nở, giọng ve vang.
Cành cây chim chóc gù xây tổ,
Bến chợ thuyền ghe bốc dở hang.
Chán cảnh bon chen rời phố thị,
Vui đời mộc mạc đến thôn trang.
Quê người vẫn nhớ về quê cũ,
Nhớ mái nhà xưa nhớ xóm làng.
Biên soạn của Vân Hạc________________________________________________
************
Tài liệu tham khảo:
-http://thothanhuu.tripod.com/tanmanuc/thoduongluat.htm
-http://thivien.maihoatrang.com/
-Cổ Thi Việt
-Thơ Hồ Xuân Hương
-Thơ Bà Huyện Thanh Quan
-Thơ Hàn Mặc Tử
-Thơ của các thi hữu: Nguyễn Duy, Nhã Uyên, Bích Trân
CÁC THỂ LOẠI TIÊU BIỂU TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT:
Ngoài việc các câu 3,4 and 5,6 phải đối, thời bấy giờ các nhà thơ còn đưa ra các thể loại đặc thù, được coi như là những "xảo thuật" để chứng tỏ người viết giỏi về từ ngữ và tạo thêm sự gay cấn cho người họa . Dưới đây là một vài thể loại tiểu biểu thường thấy trong thơ Đường Luật.
1) Thủ Nhất Thanh: Là thể thơ trong đó từ đứng đầu các câu đều giống nhau.
Ví dụ: TÁM MỪNG
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa,
Mừng xuân, xuân mới, mới thêm ra.
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ,
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già.
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững,
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa.
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi,
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa.
* Lạc
2) Thủ Vĩ Ngâm: Là thể thơ trong đó câu đầu (thủ) và câu cuối (vĩ) giống nhau..
Ví dụ:
Sông Hương da diết một chiều xưa
Mới đó mà nay đã mấy mùa,
Nỗi nhớ xôn xao vờn gió thoảng.
Niềm thương rạo rực quyện mây thưa,
Chiều tà bóng ngả phai phai nắng.
Đêm vắng trăng mờ lất phất mưa,
Núi Ngự trông xa lầu vọng nguyệt.
Sông Hương da diết một chiều xưa.
(Bến Tương Tư—Gia Phong)
3) Vĩ Tam Thanh: Là thể thơ trong đó ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm.
Ví dụ:
Ta nghe gà gáy tẻ tè te,
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè.
Cây một chồi cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe.
Chim tình bè lứa kia kìa kỉa,
Ong nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè.
Danh lợi mặc người ti tí tỉ,
Ngủ trưa chửa dậy khỏe khòe khoe.
(Ngẫu Hứng—Vô Danh)
4) Tiệt Hạ: Là thể thơ câu nào cũng bỏ lửng như bị ngắt bớt ở cuối câu nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc có thể hiểu được..
Ví dụ:
Thác bức rèm châu chợt thấy mà…!
Chẳng hay người ngọc có hay đà …!
Nét thu dợn sóng hình như thể …
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là …
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn …
Nết na xem phải thói con nhà …
Dở dang nhắn gửi xin thời hãy …
Tình ngắn tình dài chút nữa ta …
(Vô Danh)
5) Song Điệp: Là thể thơ mỗi câu đều có cặp điệp từ ở đầu hoặc cuối câu..
Ví dụ:
Vất vất vơ vơ, cũng nực cười,
Căm căm cúi cúi có hơn ai.
Nay còn chị chị anh anh đó,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp,
Khôn khôn dại dại, chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.
(Chuyện Đời –Nguyễn Công Trứ)
6) Thuận nghịch: Là thể thơ khi đọc xuôi hay đọc ngược đều có ý nghĩa và hợp vận.
Ví dụ:
Đọc xuôi:
Xa cách quê làng lại ghé thăm,
Xát xơ vàng úa cỏ nghiêng nằm.
Nhà hiên mái dột Bìm giăng kín,
Ngỏ trước thềm loang Dậu phủ dăm.
Tha thướt bóng Dừa hàng nối thẳng,
Ngã nghiêng cành Trúc dãy liền tâm.
Tà chiều quyện khói mờ thôn xóm,
Xa vọng khoan hò ai hát ngâm …
Đọc ngược từ dưới trở lên:
Ngâm hát ai hò khoan vọng xa,
Xóm thôn mờ khói quyện chiều tà.
Tâm liền dãy Trúc cành nghiêng ngã,
Thẳng nối hàng Dừa bóng thướt tha.
Dăm phủ Dậu loang thềm trước ngỏ
Ki’n giăng Bìm dột mái hiên nhà.
Nằm nghiêng cỏ úa vàng xơ xác,
Thăm ghé lại làng quê cách xa …
(Trường Tương Tư)
***Sau đó bỏ hai chữ đầu mỗi câu đọc xuôi và bỏ hai chữ cuối mỗi câu đọc ngược sẽ trở thành thơ Ngũ Ngôn . Nếu tiếp tục bỏ bớt 1 hoặc 2 chữ đầu or cuối nữa, sẽ có những bài Tứ Ngôn hay Tam Ngôn Bát Cú. Nói tóm lại, một bài thơ làm theo thể Thuận Nghịch, nếu được chọn từ một cách khéo léo, sẽ đọc thành 8 bài Bát Cú! Đó là điểm độc đáo của Thể Thuận Nghịch!***
***Sau đó bỏ hai chữ đầu mỗi câu đọc xuôi và bỏ hai chữ cuối mỗi câu đọc ngược sẽ trở thành thơ Ngũ Ngôn . Nếu tiếp tục bỏ bớt 1 hoặc 2 chữ đầu or cuối nữa, sẽ có những bài Tứ Ngôn hay Tam Ngôn Bát Cú. Nói tóm lại, một bài thơ làm theo thể Thuận Nghịch, nếu được chọn từ một cách khéo léo, sẽ đọc thành 8 bài Bát Cú! Đó là điểm độc đáo của Thể Thuận Nghịch!***
7) Liên Hoàn: Là thể thơ gồm nhiều bài Bát Cú liên kết với nhau, trong đó phần kết thúc của bài trên được lấy làm phần mở đầu cho bài kế tiếp.
Ví dụ:
Bao năm cách biệt Huế yêu ơi,
Viễn xứ chiều buông nhạt tiếng cười.
Vọng cảnh thương tình ngày lẻ bạn,
Nhìn người luyến nghĩa buổi chung đôi.
Sông Hương liễu rũ ôm tình nước,
Núi Ngự thông reo trãi mộng đời.
Cố quận sương mờ giăng chắn lối,
Bùi ngùi lữ khách đếm sầu rơi.
Sầu rơi cảnh vật nhuộm cô liêu,
Rặng núi xa xa phủ ráng chiều.
Ẩn hiện trời cao mây ảm đạm,
Hoà lòng biển vắng sóng đìu hiu.
Âm ba cuốc vọng lời kinh khổ,
Réo rắt quyên ca điệu sáo diều.
Đất lạ phong trần đời lữ thứ,
Phiêu bồng vẫn giữ trọn lời yêu.
Lời yêu thuở ấy tự tình trao,
Ước hẹn tơ duyên thắm chỉ đào.
Cứ tưởng men nồng hoà nhật nguyệt,
Nào ngờ rượu đắng tách trăng sao.
Cung đàn lổi nhịp dòng châu ứa,
Tiếng hát buông lơi suối lệ trào.
Mấy độ thu tàn mơ ảo giác,
Tâm đầu ý hợp mộng hư hao.
Hư hao một cõi vẫn hoài trông,
Cách biệt sơn khê luống nghẹn lòng.
Khắc khoãi người chờ nơi chốn ấy,
Bàng hoàng kẻ đợi giữa tầng không.
Cô phòng héo hắt thân nhi nữ,
Gối chiếc tàn phai phận má hồng.
Một thuở xa người sang xứ lạ,
Hồn hoang chất chứa những ngày đông.
(Vọng Cảnh Thương Tình Liên Hoàn Khúc—Vân Hạc)
8) Lưỡng Đầu Xà Nghịch Thiệt: Là thể thơ trong đó hai chữ cuối câu là cách nói lái của hai chữ đầu câu hay ngược lại.
Ví dụ:
Cai mô chả thấy hỡ cô Mai,
Hồi bút hôm qua, nay hút bồi.
Niếu đổ tường che vang nổ điếu,
Thôi liên, cù cứa, hẹn Thiên Lôi.
Vái sơ ông Địa cho vơ sái,
Ngồi ráp bàn tiên lại ngáp rồi.
Tánh thích đi tìm bao tích thánh,
Đồi thanh, cảnh phật cũng đành thôi.
(Cai Mô Cô Mai—
Nguồn từ Vân Hạc
Hồ Xưa sưu tầm và trình
bày kỷ thuật________________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét