Anderson Hong có lẽ là một trong những người đầu tiên thuộc nhóm gọi là “tỵ nạn môi trường” . Một bình loạn trên Sohu đưa ra con số là có khoảng 20,000 đại gia Trung Quốc năm nay đưa vợ con ra nước ngoài để tránh nạn suy sụp của môi trường sống tại đây. Người thật giàu thì chọn Âu Mỹ Úc, người ít tiền hơn thì thoả mãn với Singapore, Hong Kong hay Thái Lan.
Anderson học cùng trường với tôi tại Penn State vào 1963. Gia đình anh người Tàu gốc Mã Lai; anh về nước sau khi học và làm ở ngành ngân hàng. Khoảng 10 năm sau, anh chuyển qua làm và nhập tịch Singapore. Anh là một Hoa Kiều say mê chủ nghĩa Đại Hán, luôn luôn tin tưởng vào sự khôi phục của văn minh Trung Quốc như ngàn năm trước. Tôi thích cá tính anh, thật thà, trung thành, tử tế…nhưng không thân lắm vì khi đi học, anh làm tôi buồn ngủ với những bài kinh ca tụng Mao Trạch Đông và đồng phạm mỗi tuần.
Cho nên tôi không ngạc nhiên khi anh báo là đem gia đình qua Beijing sống vào khoảng 1984 nhân cơ hội HSBC mở văn phòng đại diện. Anh thay đổi việc, làm cho nhiều ngân hàng lớn khác nhau sau đó, nhưng bám trụ tại các chi nhánh ở Beijing. Khi GDP Trung Quốc được dự đoán là sẽ vượt Mỹ vào 2020, anh gởi tôi một bài văn không khác gì lắm với ngôn từ của cuốn “mùa xuân đại thắng”.
Cũng như phần lớn những người gọi là “ái quốc”, Anderson chỉ tin vào Trung Quốc, dù tư bản hay cộng sản. Anh thích Mỹ, Pháp…và ghét Nhật Bản, Việt Nam… như mọi người Tàu khác. Anh sẵn sàng bỏ qua những sai lầm về chính trị như Thiên An Môn, về kinh tế như các tập đoàn nhà nước, về xã hội như khoảng cách giàu nghèo, về quan chức và các tệ nạn tham nhũng…Anh cho rằng đó là cái giá “xứng đáng” phải trả để Trung Quốc vươn lên thống lĩnh thế giới.
Tuy nhiên qua những Emails trao đổi 2 năm gần đây, anh đã bày tỏ những dấu hiệu bức xúc về một Trung Quốc mà giá trị sống càng ngày càng tuột dốc. Anh than phiền về nạn kẹt xe tốn anh và gia đình vài tiếng mỗi ngày; anh lo lắng cho vợ con mỗi khi đi đâu vì nạn cướp giật ngay cả tại những khu sang trọng. Cư xử thiếu văn minh, vô cảm, giả dối, việc phóng uế bừa bãi và tệ nạn ồn ào không trật tự tại các nơi giải trí, du lịch là một khổ nạn bất cứ lúc nào. Ngay cả trong trường lớp, nạn du thử du thực và lối học kiểu từ chương và copy-paste khiến kỹ năng kiến thức của mấy đứa con anh không còn theo kịp chuẩn mực thế giới.
Khi anh đến Beijing vào thập niên 80’s, không khí bị ô nhiễm nặng khoảng 63 ngày mỗi năm vì nạn bão cát từ phía sa mạc Bắc và vật liệu xây dựng. Năm 2012, có đến 219 ngày mỗi năm, không khí Beijing bị nhiễm độc trên mức trung bình của thế giới. Các giòng sông quanh thành phố luôn luôn có sự cố về chất thải từ các nhà máy và tư nhân.
Trên hết, những đe doạ hàng ngày từ an toàn thực phẩm làm mất đi khoái khẩu cho gia đình. Vợ anh mở trường dậy nấu ăn và bà hiểu rõ những nguy hiểm của mọi nguồn thực phẩm từ bên trong hệ thống. Dù đã thử mọi phương thức, bà nói không thể nào kiểm soát hết những hoá chất nguy hiểm đã được bơm tẩm vào mọi thứ nhằm tăng lợi nhuận. Đỉnh cao của sợ hãi là khi đứa bé 2 tuổi nhà hàng xóm uống nhầm sữa nhiễm khuẩn và phải nhập viện.
Sau gần 50 năm xưng tụng mù quáng các lãnh đạo Trung Quốc và suốt 25 năm cùng gia đình bám trụ ở Beijing đợi ngày chiến thắng huy hoàng, Anderson bỏ cuộc tháng rồi. Giấc mơ Trung Quốc hoàn toàn tan vỡ trong trí tuệ cũng như tâm hồn. Khi tôi gởi tặng anh cuốn sách về tội ác Mao Trạch Đông của Frank Ditkotter, anh nói đây chỉ là bề nổi của tảng băng. Anh nói anh đã đọc rất nhiều tài liệu về Cộng Sản Trung Quốc mười mấy năm qua và anh xin lỗi tôi về những bài giảng ngày xưa ở Đại Học. Tôi nói tôi chỉ bị thối tai, tiền bác sĩ cũng không đắt lắm.
Anh đem gia đình về lại Singapore mặc cho một promotion trong công ty đang đợi. Anh chỉ chua xót là dù anh và 20,000 đại gia vượt biên dễ dàng, nhưng cả tỷ người Trung Quốc, đồng bào của anh, đang hứng chịu tất cả hệ quả của một đường lối phát triển ngu xuẩn trong chụp giựt và lợi ích cá nhân. Và vấn nạn môi trường này còn tồn tại ít nhất là vài ba thế kỷ nữa.
Hiền thê của Cố Giáo Hữu THƯỢNG MÀNG THANH
Nguyên Khâm Châu Đạo California
Thân mẫu của CTS. Lê minh Hoàng
Thánh Thất Portland, Oregon, Hoa Kỳ
Nhạc mẫu của Bác sĩ Võ văn Thành
Cựu học sinh Trung học Công lập Tây Ninh
Đã qui vị tại Thị Trấn Hòa Thành (Long Hoa) tỉnh Tây Ninh lúc 6 giờ ngày
25-8-2013, được cử hành tang lễ và đưa đi an táng tại Cực Lạc Thái Bình,
Thánh Địa Tây Ninh ngày 28-8-2013.
Chúng tôi xin kính thông báo đến quý Huynh Tỷ, Đệ Muội và đồng đạo các nơi.
Thành kính phân ưu cùng CTS. Lê minh Hoàng và tang gia hiếu quyến.
Cầu nguyện Đức Chí Tôn,
Đức Phật Mẫu, các Đấng Thiêng Liêng, Địa Tạng Vương Bồ Tát và Thất Nương Diêu
Trì Cung ban bố hồng ân cho chơn linhCố Lễ Sanh HƯƠNG Ýđược nhẹ nhàng siêu thăng thoát hóa và an hưởng nơi cõi Thiêng
Liêng Hằng Sống.
05/1946 – Năm 1946 là năm tôi đi trại hè Sầm Sơn, đi với đoàn Hướng Đạo, cùng
nhiều đoàn khác, tập trung tại sân ga
Hà nội. Tôi thoáng thấy một cô gái
xinh xinh, dáng người phong
nhã, có đôi mắt đẹp tuyệt vời. Không hiểu sao tôi
thấy tôi như choáng váng, má tôi nóng bừng như lên cơn sốt; lần đầu tiên tôi thấy tôi có
cái cảm giác lạ lùng này. Nhà đoàn tôi « đóng trại » to lớn, rộng rãi, đó là những biệt thự nghỉ mát của bọn Pháp thuộc điạ bỏ lại, trước nhà là
bãi biển mênh
mông, sau nhà có một cái giếng. Trưa nào tôi
cũng thấy cô gái ấy, đội nón, dưới nắng trang
trang rũ áo, tôi ngồi bên cửa sổ nhìn cô
ta. Thỉnh thoảng cô nàng ngửng đầu lên, vành nón che đôi mắt, nhưng tôi biết là cô ta
đang nhìn tôi. Thú thật, tim tôi
đập thình thình. Chao ơi, yêu đương là như vậy hay sao?
Đây là một rung động đầu tiên,
nào đâu tôi có biết cảm giác này từ thuở ra đời.
Về Hà nội tôi tìm nhà cô ta, vì có duyên nên tìm được ngay, cô ta ở gần nhà tôi. Bây giờ ta phải tìm biết tên cô
ta nữa! Chiều nào tôi cũng đi qua nhà cô ta, để nhìn vào nhà, tìm lại đôi mắt đẹp. Tôi thấy có nhiều cậu trai cỡ bằng tuổi tôi đi
qua đi lại trước cửa nhà, như tôi. Lúc đó tôi cũng thấy hơi hơi lo… sợ mất !
Nhưng may cho tôi, hồi ấy có một chú bé đi theo tôi hoài, hỏi ra là
chú Mỹ, em cô Phượng. Trời ơi là trời, đất ơi là đất! Chúng tôi đi chơi với nhau. Một hôm, tôi
viết một lá thư và mạnh dạn tôi hăng
hái ra đi, nhưng chiều hôm đó tôi không thấy cô ta ra
đứng ngoài cửa hóng mát. Rồi chiều hôm sau, chiều sau nữa. Thế rồi một chiều nào đó, tôi lại thấy cô ta đứng rũ tóc
bên thềm.
Tìm đủ nghị lực, tôi sán
gần cô ta, tay đưa lá thư, miệng lắp bắp một câu: «
Phượng… Phượng cầm… cầm lấy cho…
cho… tôi… tôi… lá thư này… » Rồi xong, tôi cắm đầu đi mất,
không dám quay lại, sợ nhìn thấy hoặc cô ta xé lá thư, hoặc quẳng xuống lề đường… tôi sẽ mắc cỡ …
Để đỡ cho cái nặng nề đó, tôi tìm cách nói khéo với chú Mỹ, chú bằng lòng
ngay. Thế là chú
thành con chim xanh của tôi. Chiều nào chú cũng để một lá thư lên bàn.
Bẩy tháng trời tôi viết đều đều, gần bẩy chục lá thư mà vẫn không thấy trả lời.
Tôi đau khổ quá không
biết cô ta có yêu tôi không, tại sao cô ta không trả lời tôi, dù thuận dù
không… Lúc bấy giờ tôi mới biết là tình yêu, thế nào là đợi chờ, là có
nhiều đau khổ. Héo hon con người.
Thế rồi một hôm chú
Mỹ tất tưởi chạy đến nhà tôi,
đưa cho tôi một lá thư, hôm đó
là một tuần trước ngày
kháng chiến toàn quốc, tôi bồi hồi cầm lá thư, ở một góc có đề : Xin TRẠCH LỰU đừng giận KIM PHƯỢNG mà xé lá thư này…, tôi
mở ra, đọc từng hàng chữ đều đều, tròn tròn, vuông vắn. Phượng nói yêu tôi từ ngay lúc
đầu… nhưng muốn thử lòng tôi để xem tôi
có phải là người đứng đắn rồi nói rằng ngày mai Phượng đi tản cư… ở Hà Ðông, cách làng tôi mấy làng… Tôi
bàng hoàng như tỉnh một giấc mơ lâu dài
chờ đợi từ bao nhiêu
giờ, bao nhiêu phút. Thế là hai hôm sau, tôi đi bộ từ Hà nội qua làng
tôi tới làng tạm trú của gia đình
nàng, chúng tôi đi chơi dọc dòng sông Nhuệ cùng chú
Mỹ, mẹ của Phượng, bà cụ nhìn chúng tôi
âu yếm từ đằng xa … đi
chơi cùng nhau hết cả buổi chiều, tôi
không dám cầm tay Phượng, tôi ân hận tới bây giờ. Tôi trở về thành, thế rồi chiến tranh, ba năm sau tôi sang Pháp. Không rõ Phượng ở đâu, tôi
vẫn nhớ Phượng hoài. Một hôm trong trường cái nhớ nó làm tôi điên đầu… trong
giờ Etude cuối lớp có anh
chàng TRẦN BÍCH LAN
NGUYÊN SA đang đọc Socrate
hay sao, bên phải gần cửa sổ HOÀNG ANH TUẤN… không
biết hắn làm gì, chắc đang làm
thơ, tôi cầm cây đàn bấm bấm… hai ngày sau thành bài EM TÔI… cả nhạc lẫn lời. Chủ nhật ra
Paris, đường
Volontaires, sau bữa cơm trưa, quây quần với nhau,
trong đó có Anh Tuấn, Thi
Liên, Thoa em gái Nguyên Sa về sau lấy Trần đình
Hòa, Bội Liên đã
nhận được bài tôi gửi tới trường, hồi đó cô ta có yêu tôi, nhưng tôi
tránh vì cô ta con nhà giầu… , Bội Liên dạo nhac
trên mấy phím
ngà… Nhạc EM TÔI
vang lên khắp cả căn phòng, tôi tê tái nghe nhạc tôi, tôi
thấy là lạ, chưa quen… vì
mỗi lần tôi đã nghe trong tôi hay nghe cây đàn bên tôi nói với tôi, bây giờ những ngón tay ngà chạy qua phím
đàn đến với tôi, tôi như ngỡ ngàng đi vào cơn mê…
Thế rồi tôi chép lại nhạc và lời trên
trang giấy học trò, trên những giòng
như đã kẻ nhạc, tôi gửi tới nhà xuất bản TINH
HOA…
Những tháng
năm qua…
KHI «EM TÔI» ĐƯỢC NỔI TIẾNG , TÔI KHÔNG ĐƯỢC SỐNG CÙNG VỚI THỜI ĐẠI ĐÓ VÌ
TÔI Ở XA , TÔI
KHÔNG ĐƯỢC NHÌN NHẬN RÕ RÀNG THẾ NÀO LÀ MỘT BẢN HÁT ĐƯỢC NGƯỜI ĐỜI YÊU CHUỘNG… TRAI
HAY GÁI, AI AI CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH
CÓ MỘT NGƯỜI YÊU , HAY MÌNH ĐƯỢC YÊU ,
HAY MÌNH TƯỞNG TƯỢNG CHÍNH MÌNH LÀ CÔ GÁI ẤY ,
CÒN CẬU TRAI ĐƯỢC YÊU CÔ GÁI DỊU DÀNG, THƠ NGÂY, ÂU YẾM , MƠ MÀNG CHO NÊN AI AI CŨNG HÁT… CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH… CŨNG CẦM LẤY CÂY ĐÀN…
Rồi một hôm tôi tìm ra điạ chỉ của Phượng tôi viết về cho chú Mỹ, Mỹ trả lời tôi: «
Em nhận được thư anh, thế là anh vẫn mạnh, chị Phượng đợi anh
trong một năm dài,
thấy anh không về, tưởng anh chết, rồi ba năm
sau chị Phượng để tang anh.
Nhiều người đến hỏi chị, chị chỉ lắc đầu. Chị vẫn đợi anh, nhưng hôm qua
chị Phượng đi lấy chồng, chị đã 26 tuổi rồi, ngày
ngày thầy me thúc
dục. »
Thế là tôi cắt đứt, để Phượng đi lấy chồng cho êm
thấm, có bổn phận với chồng với con. Tôi không muốn ám ảnh Phượng nữa để cho nàng
yên phận. Sáu chục năm rồi vẫn nhớ em,
Nhớ ai rũ tóc
đứng bên thềm,
Nhớngười giặt áo bên bờ giếng,
Nhớ nhiều, nhớ mãi, mãi
không quên…
Sáu chục năm sau,
tôi được biết tin một người bạn cùng trường năm xưa, anh
Nguyễn Thiệu Giang viết cùng một tờ báo với tôi hồi đó cùng
Thanh Nam, tôi có nhờ anh ta đến căn nhà cũ, anh nói Phượng không
còn ở đấy nữa. Nhưng có cho tôi số phone,
tôi gọi Phượng, đầu giây Phượng trả lời, tôi nói là tôi, cô ta nhắc đi, nhắc lại ba lần, anh LÊ TRẠCH LỰU hả, anh LÊ
TRẠCH LỰU hả, như không tin là có thật, khi tôi
bảo là tôi thì cô ta òa
ra khóc.
Nói chuyện cùng
nhau hơn nửa tiếng, sau những lúc ân cần hỏi han. Phượng có nói,
anh ấy có theo đuổi Phượng trong bốn năm trời, Phượng bảo Phượng có người, anh ta
cứ đeo đẳng, Phượng có nói
với anh ấy chuyện Phượng và anh. Anh ta chịu là trong
lòng Phượng có một người. Tôi xin
thành thật cảm ơn Phượng, tình yêu Phượng cho
tôi. những năm đợi chờ, đau khổ. Một lúc sau
tôi hỏi Phượng: «Thế Phượng còn giữ mấy lá thưấy không? » Tôi muốn tìm hiểu văn thời 16 tôi
viết ra sao chắc là văn lủng củng lắm. Phượng trả lời tôi:
« Em để vào trong
một cái hộp, nó đi theo em tất cả mọi nơi, trong đó có cả tập ảnh chụp hồi đó, nhưng chồng em thấy lúc nào em cũng buồn, nói với em nên giấu nó đi một chỗ, khi nào
vui thì hãy mở ra. Thế là ông ta bỏ vào đâu
không rõ, mấy năm sau ông
ta mất, tìm kiếm khắp nhà
không ra. Em chỉ nhớ anh viết dài lắm… viết dài lắm… Hôm nọ em muốn tìm cái hình anh hồi đó, mà
không thấy đâu. Tủi thân, em lại ngồi khóc, may rằng con,
cháu em bữa đó tụi nó không có nhà…
Thu Tao Ngộ
Tháng mười năm 2009 LÊ TRẠCH LỰU
NS.Lê Trạch Lựu và người vơ chụp 2009
hứng
Song Thao
Tôiở ngay Montreal mà cũng không biết là nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu cùng ở chung
thành phố với tôi.Cho tới khi đọc được bài viết về ông trên báoThanh
Niên Onlineở trong nước tôi mới biết ông là đồng…tỉnh với tôi! Ông là tác giả của bản nhạc “Em Tôi” mà hầu như mọi người đều biết. Ấm ớ về nhạc như tôi mà
lúc nào cũng có thể nghêu
ngaoem tôi ưa đứng nhìn trời xanh xanh / mang theo đôi mắt buồn vương giấc mơđược. Hứng từ nàng…nhạc nào đã
khiến ông sáng tác được bản nhạc bất hủ này vào năm 1953? Ông kể với ký giả H.Đ.N.: “Mùa
hè năm 1946, hướng đạo sinh Hà Nội gồm nhiều “đạo” (phiên đội) cả nam lẫn nữ tập trung ở ga Hàng Cỏ để đáp tàu đi dự trại hè tại biển Sầm Sơn (Thanh Hóa). Tôi bỗng để ý thấy trong
đoàn có một cô gái
xinh xinh, dáng người phong
nhã và đặc biệt có đôi mắt tuyệt đẹp. Nếu bảo rằng có “tiếng sét ái
tình” thì quả thật tôi đã bị “đánh một quả” đến choáng váng. Đến nơi, đoàn tôi gặp may là được ở trong những biệt thự nhìn ra bờ biển của khu nghỉ mát do người Pháp vừa rút khỏi. Phía
sau ngôi nhà bọn tôi ở có một giếng nước và không
hiểu vô tình
hay cố ý mà trưa nào tôi cũng thấy cô gái ấy ra giếng giặt áo. Lúc nào tôi cũng ngồi bên cửa sổ ngắm cô ấy. Thỉnh thoảng cô ấy ngước mắt nhìn về phía tôi, mỉm cười khiến tôi xuyến xao quá đỗi... Trở về Hà Nội, gần như ngay lập tức tôi đi tìm nhà cô ấy. Hóa ra
chúng tôi ở khá gần nhau. Và ơn trời, tôi phát giác ra: thằng Mỹ - đứa “đệ tử” vẫn đi theo tôi bấy lâu nay
lại chính là
em ruột của nàng. Qua Mỹ, tôi biết nàng tên là Phượng. Từ đó, mỗi chiều, tôi thường xuất hiện trước cổng nhà
nàng với một lý do rất ư chính đáng: rủ chú Mỹ đi chơi. Và như hiểu được tình cảm của tôi, những buổi chiều nàng
cũng thường ra hiên
nhà hóng mát hoặc rũ tóc
bên thềm. Tôi nảy ra ý định viết thư cho Phượng, nhưng nghĩ đến tình huống nàng cầm bức thư và... xé tan tành, hoặc quẳng xuống đất thì có mà... độn thổ ! Cách đơn giản nhất là nhờ chú Mỹ làm “giao
liên”. Vậy là suốt 70 ngày, mỗi ngày một bức thư được Mỹ chuyển đến cô chị, nhưng tuyệt nhiên chẳng có hồi âm. Tôi
nghi Mỹ “giếm” những bức thư đi, nó thề “bán sống, bán chết” đã chuyển rồi, còn tại sao
không có thư trả lời thì “anh
đi mà hỏi chị Phượng”. Tôi
đau khổ, hoang
mang… Cho đến một chiều trước ngày Toàn quốc kháng
chiến một tuần, Mỹ háo hức tìm tôi
với bức thư hồi âm đầu tiên của nàng. Tôi run run mở bức thư có những con chữ tròn
tròn, đều đều. Trong thư Phượng nói là cũng đã “để ý” tôi từ hôm gặp đầu tiên. Sở dĩ nàng
không hồi âm là muốn thử xem tôi
có phải là người đứng đắn không. Sau đó gia đình nàng tản cư về Hà Đông. Hai hôm sau, tôi đi bộ từ Hà Nội đến thăm
nàng. Ngạc nhiên trước “nhiệt tình” của tôi, bố mẹ nàng đã cho phép tôi đi chơi suốt một buổi dọc bờ sông Nhuệ (dưới sự giám sát của... Mỹ!). Đó là một lần bên nhau duy nhất, một ngày hạnh phúc ngập tràn. Chỉ một điều khiến tôi ân hận đến mãi bây giờ là đã
không dám cầm tay Phượng, dù chỉ một lần”.
Cái tay ở gần kề mà không biết cầm khiến nhạc sĩ Lê Trạch Lựu mất luôn…vợ! Bởi vì sau
đó chiến tranh
bùng nổ nên đôi
người đôi ngả. Ba năm sau, năm 1951, ông đi Pháp và từ ngày đó tới nay chưa hề trở về Việt Nam. Tình vào cuối thập niên 1949 chay tịnh như vậy. Có cái
tay mà cũng không dám rớ tới. Qua thập niên
1950, tình hình mặt trận yêu đương đã sáng
sủa hơn nhiều. Nhà thơ Trần Dạ Từ, khi yêu,
đã biết mi người tình, tuy cái mi còn như…hết hồn.Lần đầu ta ghé
môi hôn / Những con ve
nhỏ hết hồn kêu
vang. Từ thập niên 1960, tình yêu đã luồn lọt đến mọi khe hở. Nếu nhạc sĩ Lê Trạch Lựu yêu
trong thập niên này
thì tình hình chắc đã khác.
Nhưng nếu “em tôi” trở thành “madameLê Trạch Lựu” thì thiệt hại vô số, giới thưởng thức nhạc chắc sẽ chẳng có“Em Tôi”.Tình dang dở mới là nguồn hứng để các văn
thi nhạc sĩ sáng
tác. Nếu vẹn câu thề rồi thì chỉ lo sản xuất các công
dân cho tổ quốc, thơ thẩn nhạc nhiếc gì nữa.
Chuyện tình của các ông
thi sĩ nhạc sĩ ngày
xưa cứ lửng lơ con cá vàng như vậy cả. Có hai
chàng nhạc sĩ xứ Quảng là Vũ Đức Sao Biển và Đynh
Trầm Ca, cùng thầm yêu một cô gái
tên Hồ Thị Thu. Khoảng thập niên 60, Thu khoảng mười tám đôi mươi, nữ sinh trường Trung học Tiểu La,
Thăng Bình, Quảng Nam.
Nàng có mái tóc dài, khuôn mặt trái
soan, làn da trắng hồng. Hai chàng nhạc sĩ lúc đó đều là học trò chân đất, bạn thân với nhau. Có
lẽ họ cùng ấp úng như nhau. Nàng Thu đi lấy chồng sớm. Chồng của nàng là
trai thời loạn, một Trung Úy
Pháo binh tên Trần Đình Ái.
Kể về cuộc tình
này, anh Hồ Luân, anh
rể của cô Thu và là bạn của cả Vũ Đức Sao Biển lẫn Đynh Trầm Ca cười hô hố: “Thằng Mạc Phụ (tên thật của Đynh Trầm Ca) quen
con Thu là qua tui. Dạo đó tui để ý cô chị tên Liên.
Liên bị bệnh, tui muốn đến thăm nhưng đi một mình thì hơi run, bèn
rủ thằng Phụ đi theo.
Ai dè, tới nhà
Liên, hắn gặp cô em, đâm ra như mất hồn! Còn con
Thu có tình cảm chi với Võ Hợi (tên thật của Vũ Đức Sao Biển) không
thì tui không rõ. Nhưng mà tui
thấy nhiều khi người ta hư cấu mà…hay
quá trời, đến nỗi mình là
người trong cuộc mà còn ngẩn tò te nữa đó!”.
Người trong cuộc chính cống là nàng Thu. Hỏi thì nàng
kể rất vui: “Dạo đó tôi với anh Đynh Trầm Ca cũng
có tình cảm nhưng chỉ là tình cảm tuổi mới lớn. Hồi quen anh ấy tôi mới học lớp Đệ Lục trường Trung Học Tiểu La, nhưng rồi không
duyên nợ. Tôi lấy chồng năm
1966, chồng tôi người gốc Hà Nội”.Tới đây thì tôi muốn dấu một nụ cười. Không dấu thì tên Hà Nội là tôi
chắc sẽ khốn với các ông bạn gốc Quảng như các ông Luân Hoán, Phan Xuân Sinh, Lưu Nguyễn tài hoa
rất mực. Dù sao, mối tình ấm ớ của hai chàng nhạc sĩ Quảng với một người đẹp cũng cho giới thưởng ngoạn lời được hai bản nhạc rất nổi tiếng:“Thu, Hát
Cho Người”của Vũ Đức Sao Biển và“Ru Con Tình Cũ”của Đynh Trầm Ca.Dòng sông
nào đưa người tình đi biền biệt / Mùa thu nào cho người về thăm bến xưa / Hoàng Hạc bay, bay
mãi bỏ trời mơ / Về đồi sim ta
nhớ người vô bờ.Đó là tâm sự của ông Vũ Đức Sao Biển. Còn ông Đynh Trầm Ca thở than:Ba năm
qua em trở thành thiếu phụ / Ngồi ru con như ru tình
buồn / Xin một đời thôi tiếc thương nhau /
Xin một đời ngủ yên dĩ
vãng.
Nhà
thơ Phạm Thiên Thư, nửa đời nửa tu, nhưng cửa Phật rộng mở cho những bóng hồng bước vào. Dù chỉ là những
chiếc bóng thoáng qua trước cửa chứ chưa vào tâm hồn ông. Bài thơ “Vết
Chim Bay”ông làm năm 24 tuổi được gợi hứng từ một cô nữ sinh thường vào sân chùa để học bài. Nàng đẹp thánh thiện như ánh sáng của Quan Thế Âm
Bồ Tát. Nhà tu họ Phạm tới làm quen. Mới được một tuần, tình chưa bén, bóng nàng đã khuất.
Nhà tu si tình ngồi ở sân
chùa đợi mong bóng dáng nho nhỏ của người đẹp trở lại. Nhưng bóng chim tăm cá khuất nẻo. Nàng chẳng bao giờ về lại chốn cũ. Mười năm sau, khi trở lại chùa xưa, leo lên gác chuông, nét phấn trắng ghi tên hai người vẫn chưa phai, lòng bâng khuâng chuyện
cũ, chàng đề thơ.
Ngày
xưa anh đón em
Nơi gác
chuông chùa nọ.
Con chim nào qua đó
Còn để dấu chân in…
Anh một mình gọi nhỏ
Chim ơi biết đâu tìm.
Nhưng nàng thơ nổi tiếng nhất của nhà thi
sĩ cửa chùa này là Hoàng Thị Ngọ trong bài
thơ“Ngày Xưa Hoàng Thị Ngọ”.Tình yêu
kiểu nhà tu là tình yêu chỉ phớt qua da.
Phớt qua mà cũng…hứng ra gì. Chẳng gì cái
tên Ngọ rất tầm thường đã được nâng lên
thành thơ, rất thơ. Đó là cô
bạn cùng lớp lại là hàng
xóm của nhà thơ, người gốc Hải Dương. Hai lần gần gũi như vậy tưởng mối tình dễ bộc lộ. Nhưng không, Phạm Thiên Thư còn tệ hơn Lê Trạch Lựu. Yêu ở trong
lòng nhưng mồm miệng bị đóng khằn không mở ra được. Yêu
trong thập kỷ 1970 mà cái miệng còn vướng víu như vậy thì chán thật. Hàng ngày, khi
xếp hàng vào lớp, nàng đứng ở đầu hàng bên
nữ, nổi bật với mái tóc dài xõa trên bờ vai mỏng. Chàng thi sĩ của chúng ta
chỉ biết nhìn trộm. Khi tan
trường, Hoàng Thị Ngọ một mình lẽo đẽo trên đường, nhà thơ lại chỉ lẽo đẽo theo sau. Tệ! Vậy mà còn kể:“Cô ấy ôm cặp đi trước, tôi đi
theo nhưng không
dám lên tiếng. Trong
bóng chiều tà, ánh
nắng hắt qua hàng cây, cô ấy lặng lẽ bước, gây cho tôi những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Cứ thế, tôi chỉ biết lặng lẽ đi theo
sau cô ấy hàng
ngày, giấu kín những cảm xúc của mình không cho bất cứ ai biết”.Tôi chán ông này quá. Nhưng cứ tình câm như vậy văn học lại có được một bài thơ hay.
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Con chim giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
Anh đi theo hoài
Gót giầy thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng
khuâng
Cứ theo suông như vậy thì em có đi lấy chồng là chuyện dĩ
nhiên. Em đi theo người, anh ôm
mối tình si. Tình nở thành thơ. Thơ cũng như rượu, để lâu mới ngấm. Mười năm sau (lại mười năm, ông nhà thơ này coi bộ khoái con số mười của thời gian!), trở lại đường xưa, thơ mới da diết.
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng dáng đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu
Chân theo tìm nhau
Còn là vang vọng
Đời như biển động
Xóa dấu ngày qua
Được Phạm Duy phổ nhạc, Hoàng
Thị Ngọ trở nên quen
thuộc với cả nước. Theo nhà thơ thì nhan
đề của bài thơ khác bản nhạc. Không
phải“Ngày Xưa Hoàng Thị”mà là“Ngày Xưa Hoàng Thị Ngọ”.Không hiểu sao khi
phổ nhạc, nhạc sĩ Phạm Duy lại cắt bớt đi như vậy. Phải công nhận là cái
tên Hoàng Thị Ngọ bay cao đến như vậy là nhờ nhạc sĩ Phạm Duy. Có thể nói là Phạm Thiên Thư tạo ra Hoàng Thị Ngọ nhưng Phạm Duy tô son trát phấn cho
nàng. Chỉ một bóng hồng nhưng gợi ra được hai cái hứng cho hai
nghệ sĩ, bên thơ bên nhạc.
Phạm Thiên Thưỡm ờ trong
tình yêu. Phạm Duy chắt hết tình yêu.
Ông chắt hơi kỹ với vụ mà báo
chí thời cuối thập niên
1950 gọi là vụ “ăn chè Nhà Bè”. Chuyện không tốt đẹp đã trở thành chuyện thương tâm cho nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Ngày
nay hai nạn nhân của vụ ăn chè
này, hai chị em Phạm Thái Hằng và Phạm Đình Chương, đã ra
người thiên cổ. Hầu như chúng ta đều biết chuyện lùm xùm
này nên chẳng cần nhắc lại, chỉ xin trích
một câu trong cuốn Hồi Ký III của Phạm Duy:”Dù chưa đến độ lúc nào
cũng đấm ngực thùm thụp để nhận cái tội gốc của những người mang số kiếp nòi tình, tôi luôn luôn buồn rầu khi phải nhắc lại mối tình cấm (amour défendu) mà tôi cả gan đi vào khi tôi mới ngoài 30
tuổi. Tôi chỉ buồn vì đã
làm buồn lòng người vợ, người em. Buồn vì biết rằng những đổ vỡ này sẽ không bao
giờ có thể hàn gắn được”.
Hậu quả của vụ này là cuộc ly dị giữa Khánh Ngọc và Phạm Đình Chương. Một bài báo của Sông Lô
trên trang mạngDCVOnlinemới đây đã ghi lại: “Nghe nói,
sau khi ly dị, nhạc sĩ Phạm Đình Chương phải chịu cảnh gà trống nuôi con, ông cố gắng hát và sáng tác trở lại. Một đêm trên
một sân khấu đại nhạc hội, ông gặp lại người cũ của mình và
ông đã bị từ chối khi ngỏ ý muốn đưa nàng về nhà vì trời đang mưa. Quá đắng cay, ông lặng lẽ về căn nhà với chập chùng kỷ niệm, nhìn mưa rơi mà lòng
tan nát, tủi thương cho thân phận, ý định tìm chết bỗng chớm trong ông, nhưng tiếng khóc của trẻ thơ đã làm
ông bừng tỉnh mà níu ông lại! Nhạc phẩm “Nửa Hồn Thương Đau” theo ý thơ Thanh Tâm
Tuyền được ông sáng tác cũng vào cái đêm mưa hôm đó”.
Nhắm mắt cho tôi
tìm một thoáng hương xưa
Cho tôi về đường cũ nên
thơ
Cho tôi gặp người xưa ước mơ
Hay chỉ là giấc mơ thôi
Nghe tình đang chết trong tôi
Cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau
Ôi sao ngàn trùng mãi xa
nhau
Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào
Anh ở đâu? Em ở đâu? Có
chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu
Tâm sự của Phạm Đình Chương nhưng thơ của Thanh
Tâm Tuyền. Hai người là bạn thân. Họ có cùng chung một hứng cảm chăng?
Nghệ sĩ là những người có con
tim mẫn cảm. Họ sống được trong
tim nhau. Và họ trải được lòng mình
cho những người thưởng ngoạn.
Phạm Đình Chương cùng
quê Sơn Tây với nhà thơ Quang
Dũng. Có lẽ cùng sinh
trưởng nơi miền Bất Bạt nên họ đi vào lòng nhau. Mối tình của Quang Dũng với nàng thơ Akimi Nhật được ông cho vào bài thơ “Mắt Người Sơn Tây”được Phạm Đình Chương hứng thú thắp cao bằng nhạc. Chắc con tim
của người Sơn Tây có
chung nhịp đập! Nàng thơ tên Nhật, còn gọi là
Akimi, là một thiếu nữ nhan sắc mà Quang Dũng ca ngợi bằng bốn câu thơ.
Tóc như mây cuốn, mắt như thuyền
Khuấy nước kênh đào
sóng nổi lên
Ý nhị mẹ cười sau nếp áo
Non sông cùng đắm giấc mơ tiên
Bốn câu gợi hứng từ vẻ đẹp thần kỳ của cô hàng
nước ngỡ là con dân xứ Phú Tang
này đã được Quang
Dũng tự tay dán
lên vách quán. Lúc đó Quang Dũng là Đại Đội Trưởng Trung
Đoàn Tây Tiến đóng ở Hòa Bình. Mỗi lần nghỉ phép về thăm gia đình ở Phùng,
nhà thơ thường tạt qua chợ Đại thăm người tình cũ tại quán cà
phê của nàng. Cảm hứng từ cô gái có cái tên Nhật Akimi đã
cho chúng ta hai bài thơ“Mắt Người Sơn Tây”và“Đôi Bờ”bất hủ.Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm / Em đã bao ngày em nhớ thương.Khi phổ nhạc, Phạm Đình Chương đã ghép
hai bài thành một“Đôi Mắt Người Sơn Tây”.
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy
cốc
Nói cười như chuyện một đêm mưa
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Nói về hứng khởi của người viết là nói
chuyện vô cùng. Có thể đó là một bóng
dáng chưa dám cầm tay của Lê Trạch Lựu, có thể là hai mối tình một chiều ấm ớ của Vũ Đức Sao Biển và Đynh Trầm Ca, có
thể là mối tình câm của Phạm Thiên Thư, cũng có
thể đó là nỗi đau một đời của Phạm Đình Chương hay có
thể là mối tình chia ly của Quang
Dũng. Hứng còn có
thể là một ánh mắt vu vơ, một bóng
dáng nhạt nhòa, một cái vấp nhẹ của con tim
hay một mối tình vô vọng. Đối với người sáng tác, cuộc đời ở mỗi mảnh, mỗi chốn, mỗi giây phút đều là những phút thần diệu của hứng khởi. Đúng
lúc đụng vào con tim là…tóe ra thơ ra nhạc ra tranh
ra văn.
Đêm qua, nghe văng vẳng mấy câu nhạc của những người Sơn Tây, tôi, một người Sơn Tây bất đắc dĩ, bỗng nổi hứng viết bài này.
Phải nói cho rõ tại sao tôi lại là người Sơn Tây…dỏm. Nguyên ông bà cụ thân sinh
ra tôi là người Hà Nội. Nhà cửa, gia
đình nội ngoại đều ở Hà Nội. Ông cụ tôi bị đổi lên làm việc ở Sơn Tây và
bà cụ sanh tôi tại đây. Sanh tại Sơn Tây nhưng ông bà
lại về nơi chôn
nhau cắt rốn khai sanh cho tôi ở Hà Nội, đâu chừng mấy tháng sau đó. Việc di dời nơi sanh đã
khiến tôi bị thiệt thòi: chẳng biết ngày
tháng sanh chính xác để nhờ ông Võ Kỳ Điền bấm cho lá số tử vi! Nhưng chẳng cần tử vi tôi cũng biết số tôi là số con…dã
tràng. Cứ miệt mài những chuyện không đâu! Thôi thì lại miệt mài vậy.
Chuyện hứng tới đây có thể chấm dứt được nhưng tôi lại muốn thòng
thêm tí đuôi. Người Sơn Tây Quang Dũng, khi…đôi bờ với nàng thơ Akimi,
ông đã hỏi:Em đi áo mỏng buông hờn tủi / Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?Akimi đã
đi rất xa. Năm 1954, nàng di cư vào Sài Gòn, một thời là kiều nữ của nhà hàng
Tự Do. Năm 1975, theo vận nước, nàng di
tản qua Mỹ và hiện sống tại đây.
Tí đuôi nữa mà tôi muốn thêm là
chuyện tình của người cùng ở thành phố Montreal
với tôi, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu. Bài hát“Em Tôi”được ông sáng tác tại Pháp vào
năm 1953 trong một lúc nhớ về người yêu cũ và gửi về cho nhà xuất bản Tinh Hoa ở Sài Gòn.
Và bản nhạc trở thành một hiện tượng. Qua bạn bè còn ở Việt Nam, ông
liên lạc được với cậu Mỹ, em của người đẹp Phượng. Nhạc sĩ họ Lê kể tiếp:“Cậu ấy thư cho
tôi ‘chị Phượng đợi anh suốt mấy năm mà anh vẫn bặt tin. Tưởng anh đã
chết, chị để tang anh
ba năm (nhiều người đi hỏi, chị vẫn lắc đầu). Nhưng…hôm qua là ngày cưới của chịấy, ba mẹ thúc giục mà chịấy đã 26 tuổi rồi’. Muốn cho nàng
yên phận với chồng con, từ đó tôi không còn liên lạc gì với quê nhà”.Cuối năm 2009, nhờ một người bạn cũ, ông biết được số điện thoại của Phượng ở Hà Nội. Ông vội gọi về. Đầu dây bên
kia, từ Hà Nội, bà Phượng trả lời. Lê Trạch Lựu kể lại.“Tôi xưng tên, cô
ấy cứ nhắc đi nhắc lại ba lần: anh Lê Trạch Lựu hả? như không tin là có thật. Khi tôi
xác nhận là tôi,
cô ấy òa ra
khóc…Sau những ân cần hỏi han, Phượng kể: Anh ấy đeo đẳng Phượng trong bốn năm trời. Phượng nói Phượng đã có người, anh ấy cứ đeo đẳng. Phượng kể thật với anh ấy chuyện Phượng và anh,
anh ấy chịu là trong lòng Phượng có một người…Rồi tôi hỏi:”Phượng còn giữ những bức thư không?” Tôi muốn tìm hiểu lúc 16 tuổi tôi viết văn ra sao, chắc lủng củng lắm! Phượng bảo: “Em để vào một chiếc hộp chung với tập ảnh chụp hồi đó. Nó
theo em đi tất cả mọi nơi, nhưng chồng em thấy em lúc
nào cũng buồn, nói với em nên giấu nó vào một chỗ, lúc nào
vui hãy mở ra. Thế là ông ấy bỏ vào đâu không rõ. Mấy năm sau
ông ấy mất, tìm cái hộp khắp nơi mà không
ra! Em nhớ anh viết dài…dài lắm. Hôm nọ muốn tìm cái
hình anh ngày đó mà chẳng thấy. Tủi thân, em
lại ngồi khóc, may mà con cháu bữa đó không có ở nhà…”.
Thêm một tí đuôi nữa: hiện nhạc sĩ Lê Trạch Lựu sống với vợ là bà Danica, một phụ nữ Pháp gốc Ba Lan. Họ vẫn còn hít thở cùng một thứ không khí
với tôi ở Montreal!