Kỷ
niệm HÀNH TRÌNH XUYÊN VIỆT
* Tác giã: Hồ Xưa ____________________________
Ngày 21-4-2012, chúng tôi đã thực hiện một cuộc hành trình du lịch Xuyên Việt để
đi thăm những nơi thắng cảnh
và khu di tích lịch sử của
quê hương Việt Nam ở miền
Trung và miền Bắc, do “Công Ty Saigontourist” tổ
chức.
Từ sáng sớm,
chúng tôi đáp chuyến bay của hảng
Hàng Không Vietnam Airline rời
Tân Sơn Nhất đi Đà Nẳng.
Sau gần một giờ bay, phi cơ đáp xuống phi trường
Đà Nẳng, một thành phố cãng đẹp
và cũng là nơi có một căn cứ quân sự
quan trọng bậc nhất của Mỹ trong thời kỳ chiến
tranh Việt Nam trước đây.
Nhân viên hướng dẫn của
Công Ty Du Lịch đón chúng
tôi về khách sạn nhận phòng, sau đó đưa
chúng tôi đi thăm chùa Linh Ứng
ở bán đảo Sơn
Trà, mở ra trang đầu tiên của cuộc
hành trình Xuyên Việt sẽ kéo dài trong chín ngày sắp tới.
“Quê em
có dãi sông Hàn,
Có hòn Non Nước,
có hang Sơn Trà.”(Ca dao)
Xe chạy phon phon trên những
đường phố sạch
sẽ, đẹp mắt
đang trên đà kiến thiết, phát triển qui mô của Đà Nẳng.
Nhiều cao ốc, nhà cửa tiện
nghi, sang trọng đang xây dựng dọc theo bờ
biển Bắc Mỹ
An xinh lịch mà nghe nói nơi đây ngày xưa thật đìu hiu, hoang vắng,
cây cối xác xơ. Nhiều căn nhà mới
sang trọng giống như căn tri-plex ở
Mỹ, gồm 3 hộ đã hoàn chỉnh
ở khu vực nầy
có trị giá trên một triệu đô-la, đang ẩn
núp sau những hàng cây mát rượi mới
được trồng vài năm nay ở độ
tuổi xanh tươi mơn
mỡn. Tự nhiên, sao tôi lại thì thầm tự hỏi một
mình: Ai có thể mua được những căn nhà sang trọng
nầy ngoài người ngoại quốc và
những đại gia có thế lực
trong một nước mà đa phần dân chúng còn đang trong cảnh nghèo đói?
Đàng kia, trên mặt biển khá yên tịnh
lặng gió hôm nay, hàng trăm
chiếc tàu thúng của dân đánh cá đang bềnh bồng, nhấp
nhô tạo nên hình ảnh khá đẹp mắt. Đó
là những phương tiện sinh sống
của một thành phần lao động
vất vã tại địa
phương, ngày đêm cật lực,
mệt nhọc với
cuộc sống truyền thống
lâu đời đang theo bước chân của cha ông họ
trước đây: Đó là nghề đánh cá.
Chiếc xe buýt đời
mới xinh lịch đưa đoàn 30 người
của chúng tôi đi, chẳng mấy lúc đã đến
khu vực núi Sơn Trà. Đường đi Sơn
Trà để lên chùa Linh Ứng – Bãi Bụt quanh co, cao dốc
nhưng được tráng nhựa và xây đá qui mô, kiên cố. Nhìn từ
xa, trên cao chót là pho tượng
Phật Bà Quan Âm đang sừng sững uy nghi, vượt
vút giữa nền trời xanh, thỉnh
thoãng có những vầng mây trắng lững lơ buông mình tuyệt đẹp.
Tượng Phật Bà bằng đá trắng
cao 67 mét, đường kính tòa
sen 35 mét, tương đương với tòa nhà 30 tầng,
hiện nay là ngôi tượng cao nhứt trong nước.
Phía sau tượng là ngôi chùa
uy nghi, rộng rãi với tiếng mỏ, tiếng chuông quyện lẩn
với mùi trầm hương nhang khói tạo
ra cảnh trí oai linh, hùng
vĩ và không khí đượm nét
linh thiêng, huyền diệu. Người viếng cảnh đang thanh thãn tâm hồn mình hướng nhìn từ
trên độ cao đưa tầm
mắt về bờ
biển xa xa, lòng như quên đi bao ưu phiền của cuộc thế, tìm an hưởng
đôi giây phút ngắn ngũi
riêng tư đầy thú vị.
Rời khỏi
khu vực linh thiêng, chúng
tôi được đưa đi dùng cơm trưa và nghỉ
ngơi tại khách sạn. Chiều
đến, đoàn đi thăm Ngũ Hành Sơn, khu vực gồm có
năm ngọn núi nằm cạnh
nhau một cách đẹp mắt,
là vùng núi rất nổi tiếng trong lịch
sử địa lý nước nhà. Ngũ Hành Sơn
thuộc khu vực bờ
biển Non Nước. Chúng tôi phải bước lên 160 bậc
đá mới đến được hang động
Ngũ Hành Sơn, chung quanh là
cảnh trí kỳ bí, lung linh
huyền ảo, mãi ngắm nhìn mà lòng như
bị cuốn hút, không thấy chán.
Xuống
núi, chúng tôi đi thăm khu làng truyền
thống chuyên khắc tượng đá gần
bên núi Ngũ Hành Sơn. Cả làng Hòa Hải đều
làm nghề điêu khắc tượng đủ loại bằng
đá quý. Đâu đâu cũng tràn ngập
những xưởng điêu khắc và trưng
bày sản phẩm điêu khắc. Vị tổ sư
nghề nầy là một nghệ
nhân đã đến từ miền
bắc Việt Nam mấy thế kỹ trước đây, vào sống
và truyền dạy hàng bao nhiêu thế hệ
cái nghề điêu khắc với
kỹ thuật tân kỳ, tinh xảo đã trở nên nổi
tiếng trong nước và cả thế giới.
Tượng Phật Bà Quan Âm tại chùa Linh Ứng
Những sản phẩm bằng đá quý hiếm gồm
nhiều tượng Phật, tượng
Chúa, tượng Đức Mẹ
Maria, tượng Phật Bà Quan Âm, đến cả
những tượng nghệ thuật của những nữ
nhân khỏa thân với những đường
cong tuyệt mỹ. Đến
xem, du khách sẽ bị mê hoăc giữa một
rừng nghệ thuật tràn ngập
những sản phẩm tượng
đá đầy hấp dẫn
đủ loại, đủ cở, đủ thể
hình.
Tượng mỹ nhân.
Luyến tiếc vẫn còn mãi vươn vấn
khi phải ra khỏi làng điêu khắc, chúng tôi hướng về thăm phố
cổ Hội An, cách xa làng điêu khắc 25 cây số về phía
nam, là một vùng đất mua bán lịch sử nổi tiếng trù phú sầm uất
một thời của
quê hương nhiều thế kỹ trước. Chúng tôi vào thăm di tích còn giữ như
nguyên vẹn của gia đình ông Phùng Hưng, người làm nghề
mua bán lâu đời nhứt nơi
đây, đi xem từ tủ chứa
hàng, căn phòng làm việc,
bàn thờ gia chủ, đến
cả tấm lưới chắn bằng thép an toàn ngày xưa trên gác mỗi khi có ngập lụt.
Tất cả di vật đều trở nên quý giá hiếm hoi. Mọi căn nhà phố
mua bán ngày xưa trên Khu phố cổ
Hội An được giữ gìn, bảo
vệ khá nguyên vẹn. Một số ít
căn phố với lối
kiến trúc xưa hiện vẫn do
con cháu của người Nhựt, Hoa, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý tiếp
tục nghề mua bán. Đó là những hậu duệ của những thương
buôn đã từng ghé nơi nầy
trao đổi, mua bán hàng hóa với dân bản xứ, dần dần
biến đổi vùng đất cằn cỗi, vắng vẻ nầy trở thành khu phố
mua bán trù phú, sầm uất vang tiếng một thời của
vùng Đông Nam Á mang tên Phố
Hội An. Ngày nay, để bảo
tồn nét cổ kính của khu di tích lịch
sử nầy, chánh quyền địa
phương đã có luật cấm
việc sửa chửa tự ý
nhà cửa. Nhờ vậy
mà nhà cửa vẫn như còn nguyên vẹn
như ngày xưa, từ đường sá
nhỏ hẹp, chiếc cầu nhỏ đơn
sơ bắc qua con sông, những ngôi nhà kiến trúc cổ tỉ mỉ, khéo léo bằng gỗ quý, cho đến
cái ao chật hẹp vẫn
còn đọng nước. Đó là hình ảnh Hội An của
hàng bao thế kỹ trước đây.
Phố cổ Hội An ban ngày.
Phố cổ Hội An ban đệm
Cầu Nhật Bản bắc qua sông Hoài
Đêm đã về trên phố cổ Hội An. Chúng tôi đi thã bộ trên cây cầu Nhật Bản bắt qua sông Hoài, nhìn về bên kia cầu là khu phố
đèn lồng với những chiếc
đèn lồng hoa đủ kiểu,
đủ màu đang tỏa rực
ánh sáng tạo thành bức tranh thủy mạc
lung linh về đêm thật đẹp
tuyệt vời. Tại trung tâm phố
cổ trong giờ nầy
Tại trung tâm phố
cổ trong giờ nầy
không thấy có ánh đèn điện sáng choang, mà chỉ là những chiếc
đèn lồng. Đâu đâu cũng là
đèn lồng. Đèn lồng phủ kín cả
khu phố mua bán cho đến những gánh hàng rong, quán cà phê bên vệ đường
hay những ghe tàu nhỏ đang lướt nhẹ
trên sông. Cảnh tượng thật mơ mộng, lung linh, mờ ảo.
Vào trong trung tâm phố cổ, người ta cũng không thấy
bóng dáng xe hơi, mà chỉ là những chiếc
xe đạp, xe xích lô đạp và xe gắn máy. Có lẽ
vì đường phố chật
hẹp và cũng để bảo
vệ khách bộ hành đang tấp nập
đi dạo cảnh chăng? Cũng có thể lắm!
Sau khi từ giã Khu phố Hội
An cổ kính, chúng tôi dùng cơm tối
và trở về nghỉ đêm nơi
khách sạn Minh Toàn. Sáng
hôm sau (ngày 22-4-2012, ngày thứ
nhì của chương trình du lịch), chúng tôi đi thăm Khu Du lịch Bà Nà – Núi Chúa, cách Đà Nẵng 30 cây số.
Xe chạy trên con đường
Nguyễn tất Thành khang trang, xinh đẹp với
những hàng thông thẳng đứng xõa tóc lã lơi
dọc theo bờ biển
tạo ra phong cảnh đẹp lý tưởng
nhất của miền Trung Việt
Nam .
Đặt chân lên tại chân ga cáp treo Thuận Phước, bên cạnh
Suối Mơ, du khách bắt đầu
lên cáp treo để đến chùa Linh Ứng ở
tận trên đỉnh núi Chúa. Hệ thống
cáp treo nầy được tập
đoàn quốc tế gồm
các nước Ý, Tây Ban Nha, Anh
và Thụy Sĩ cùng khai thác
theo kỹ thuật tân kỳ, hiện đại
nhất của thế giới.
Cáp treo gồm hai đoạn: Đoạn thứ nhất dài trên 6 cây số và đoạn cáp thứ
hai dài trên 700 mét. Đây là hệ
thống cáp theo hiện đại
và dài nhất Việt Nam . Khi lên được đến
đỉnh núi, có nghĩa là du
khách đã chinh phục được ngọn núi Chúa ở
độ cao 1,487 mét, du khách
còn phải đi bộ từng
bước lên những bực đá dốc
cao mới tới chùa Linh Ứng. Nhìn từ xa bên dưới,
tượng Phật cao vót đang ngự trị
cả vùng rừng núi mênh mông, bát ngát.
Trước cổng
vào chùa là Khu Vườn Thiên
Phước, nơi có tượng Đức Phật Thích Ca đang thuyết Đạo
và hình ảnh năm vị học
trò đã được Phật độ
thành năm vị La Hán.
Chân núi Bà
Nà.
Trời trong sáng, ánh nắng
rực rỡ, nhưng không khí mát rượi.
Thỉnh thoãng có từng cụm mây trắng
mang hơi lạnh phủ kín cả
núi rừng trong mù mịt, âm u rồi thoáng một
chốc lại tan nhanh, nhường lại cảnh trời tươi sáng đẹp
mắt. Từ trên độ cao ở
chùa Linh Ứng, du khách có
thể nhìn toàn cảnh chung quanh là những núi rừng trùng điệp,
thấy toàn khu vực thành phố Đà Nẵng
hiện ở phương xa dưới
chân mình. Người ta nói trên
vùng Bà Nà nầy mỗi ngày có bốn mùa là đúng lắm! Đây là Bà Nà thân thương của miền
Trung nước Việt. Chúng tôi dọ hỏi
thì được biết, sở dĩ người
ta gọi tên Bà Nà vì theo lịch sử ghi lại
rằng trong thời kỳ Pháp thuộc, có một vị Thiếu tá người Pháp được
lệnh đi dò xem tình hình địa lý vùng núi rừng nầy, khi đến
thì thấy nơi đây có nhiều chuối rừng
nên mới đặt tên là Vùng Chuối (Banana). Dân địa phương đọc trại ra là Bà Nà (Bà Ná Nà). Ngoài ra, trước đây vùng nầy có nhiều gỗ quý
như trầm hương, gõ, trắc.
. .rất có giá trị về
kinh tế. Nhưng sau năm 1975, lợi dụng
thời gian khó khăn của đất
nước, bọn khai thác gỗ lậu
đã cùng với “lâm tặc địa
phương”tận triệt tài nguyên của
quê hương đất nước nay đã trở
thành đại gia; toàn vùng nầy chỉ còn lại
những rừng gỗ thường với cây tạp không có giá trị
mấy.
Đón cáp xuống trở lại Suối Mơ,
đoàn chúng tôi lên xe hướng
về Huế, xe từ từ xuyên
qua vùng Hải Vân bằng con đường hầm
dài trên 6 kí-lô-mét. Đoàn không đi theo con đường đèo nguy hiểm
mà xuyên qua đường hầm. Đây là đường hầm dài đẹp
và hiện đại nhất vùng Đông Nam Á do các nước Việt
nam, Thụy Sĩ, Anh và Ý thực hiện. Trong hầm
có hệ thống thoát hiểm khi hữu sự, có
camera quay tự động và hệ thống
phòng cháy chữa cháy hiện đại.
Dòng xe chay qua lại hai chiều phân ranh nhau bằng hàng rào ở giữa.
Xe xuyên qua hầm cấm không được phép vượt
hay luồn lách và cũng cấm các loại xe như
xe trâu bò, xe tải nặng, máy cày, xe đạp và xe gắn máy không được
qua hầm. Các loại xe nầy phải
dùng đường bộ qua đèo Hải Vân như
trước nay để rời
khỏi, xuôi về nam hay đi đến Huế.
(bên ngoài và bên trong đường hầm Hải Vân)
Ra khỏi hầm là
vào địa phận của
thành phố Huế, vượt qua cầu
Lăng Cô. Vùng mang tên Lăng Cô vì trước
đây có ngôi lăng rất linh
thiêng thờ bà Cô. Theo truyền tụng,
ngày xưa có một thanh niên từ xứ
Bắc vào vùng nầy để
tìm cha đi làm ăn xa lâu ngày không thấy
về. Khi đến đây, tìm mãi không thấy người cha ở
đâu, chàng trai quá nãn chí, buồn
rầu, nét mặt tiều tụy, lê
từng bước đi lững thững
xuống đò để trở
lại gia đình. Thấy vậy,
cô gái đưa đò xứ Huế
mới hỏi thăm sự việc.
Cảnh Lăng Cô.
Ảnh Hoàng Nam
Lăng Cô Bay Resort Ảnh: HX
Chàng thố lộ
tấm lòng và cô gái cảm thấy đau xót tâm sự
đáng thương của chàng. Từ thương
xót, cô gái trở nên yêu
chàng và tỏ ý khuyên chàng ở lại
nơi đây.. Chàng trai do dự rồi
bằng lòng và từ đó cả hai nên duyên thành chồng vợ.
Hàng ngày chàng đi đánh bắt
cá và nàng vẫn tiếp tục
chèo đò đưa khách sang sông
để sinh sống. Cuộc sống êm
đềm kéo dài chẳng được bao lâu, tai ương
lại ập đến.
Một hôm, người chồng đi đánh cá không thấy
về; người vợ
trẻ chèo thuyền đi kiếm và rũi ro bị
tai nạn chết. Dân làng thương xót xây lăng thờ cô. Việc xây lăng thờ
một người con gái quê là một việc không bình thường
vì ngày xưa lăng chỉ xây để thờ bậc vua chúa chứ thường dân không được
phép. Nhưng vì chơn hồn
cô gái rất hiển linh, đã giúp dân làng nhiều việc và vì vậy
mà quan chức địa phương cũng thuận
cho phép dân làng đặc biệt xây Lăng để thờ
cô và từ đó dòng sông nầy được mang tên là sông Lăng Cô. Ngày nay lăng đã biến mất
vì năm tháng gió mưa nhưng tên gọi Lăng Cô vẫn
còn đó. Tại khu vực Lăng Cô đã hình thành “Lang Co Bay Resort” khá đẹp mắt,
nơi đây có trưng bày và bán các sản phẩm nghệ
thuật độc đáo.
Qua Lăng Co Bay Resort, chúng tôi đã
vào đất Huế. Thành phố Huế là
kinh thành cổ xưa của
nhà Nguyễn nhưng so với Đà Nẵng
thì Huế chật hẹp
và dân thưa hơn nhiều. Diện
tích thành phố chỉ có trên 300 kí-lô-mét vuông và 320,000
dân. Hiện nay thành phố không có đơn vị
hành chánh Quận, Huyện mà chỉ có Phường
và Khu phố. Đường phố sạch, đẹp. Nhưng nói đến
Huế là nói đến những di tích lịch
sử của cả
triều đại nhà Nguyễn kéo dài hàng trăm năm cùng với những đền
đài cung điện, những lăng tẫm qui mô cổ
kính mà ít có những nơi nào khác sánh bằng.
Tối ngày 22-4-12, đoàn đến
nhà hàng Hoàng Tộc dùng cơm vua và mướn áo vua, cũng như áo Hoàng hậu mặc
để chụp ảnh
kỷ niệm. Cảnh tấp nập khác thường. Các vị
đàn ông thì tìm áo vua, áo quan còn các cô, các bà thì tìm áo hoàng hậu hay áo công chúa. Mãi bận lo mặc áo, nhiều
ông quên mặc quần dài. Xong cuộc, nhận bức ảnh đã chụp, nhìn vào mới
cười bổ ngữa
ra khi phát hiện mình là vua
mặc Hoàng bào mà không mặc quần. Lại
thêm một trận cười rồn rã
thõa thích nữa thật là vui!
Thức ăn được
nấu dọn ra mang tên cao lương mỹ vị theo
cung cách của thức ăn dành cho vua chúa ngày xưa, mặc dầu thực tế
không phải thế. Bữa
ăn Hoàng Tộc được thêm linh đình, vui vẻ khi ban ca nhạc xứ
Huế trình diễn văn nghệ cho đoàn thưởng
thức. Du khách có một đêm say mê câu hò, điệu hát xứ Huế qua
lời hát véo von, trầm bỗng
của các cô gái Huế dễ
thương và ngón đàn điêu luyện của
các nghệ nhân chuyên nghiệp. Đó là hình ảnh giải trí nhằm
nhắc gợi lại
cảnh cung đình vua chúa ngày
xưa ở Huế.
Ngày thứ ba của cuộc
hành trình (23-4-2012), đoàn đuợc
hướng dẫn đi thăm hai ngôi mộ của
hai vị vua tiêu biểu của
nhà Nguyễn. Đó là vua Minh Mạng và vua Khải Định.
Vua Minh Mạng là vị vua tài đức
và có công lớn trong việc mở
mang lãnh thổ bờ cõi Việt Nam, nhất
là về phương nam cho đến tận
vùng Cà Mau, Phú Quốc, nhưng lại bị mang
tai tiếng là vị vua có nhiều vợ
(trên 500) và có cả thảy 142 người con gồm
78 hoàng nam, 64 hoàng nữ.
Trên đường đi đến Lăng Minh Mạng, xe đi qua Đàn Nam Giao giữa rừng
thông bạt ngàn. Đàn Nam Giao
được vua Gia Long ra lịnh xây dựng để
cúng tế trời đất
hàng năm. Đàn được kiến trúc gồm ba tầng:
Hai tầng dưới hình vuông, tượng trưng cho đất
và người. Tầng trên hình tròn tượng trưng cho trời
cũng là uy quyền của vua, vì vua thay trời trị nước.
Vua Gia Long là người bình dị, chịu khó nên ông cho lịnh
xây mộ mình nằm giữa rừng
bên cạnh núi non trùng điệp để
hòa hợp mình cùng với thiên nhiên, trời đất.
Còn Minh Mạng thì khác với vua cha. Ông lên ngôi năm 1820, sáu năm
sau, tức năm 1826, ông cho
người đi tìm vùng đất có đầy đủ các
yếu tố địa
dư phù hợp theo dịch lý Á đông, nghĩa là phía trước phải có sông, hai bên có hồ và phía sau để
lăng mộ tựa vào là núi cho trụ vững.
Nhưng mãi đến 14 năm sau (1940), vị quan triều đình giỏi
nhứt về địa
lý thời bấy giờ là Lê văn Đức
mới tìm được nơi
ưng ý hợp phong thổ dịch lý,
đệ trình với nhà vua. Vua nghe trình rất hài lòng ra lịnh ân thưởng, cho nâng hai cấp
đặc cách vị quan nầy.
Tháng 4 năm 1840, vua Minh Mạng đích thân đến xem địa điểm sẽ xây lăng mộ của
mình và khi nhìn thấy nơi đây vua rất vui mừng liền
cho đổi tên núi Cẩm Khê nơi đó thành núi Hiếu
Sơn. Nhà vua sai vẽ họa
đồ thiết kế
xây dựng và cho lịnh gởi ngay 3 ngàn lính cùng thợ xây lên, bắt
đầu thực hiện việc
phát quang, đào hồ trong khu
vực để tiến
hành xây lăng mộ.
Nhưng ngày 20-2-1841, Minh Mạng đột ngột băng hà lúc mới 50 tuổi. Vua Thiệu
Trị lên ngôi, ra lịnh tiếp tục gấp rút công việc xây Lăng của vua cha, huy động một (01) vạn
quân cùng 7 vị quan viên quản vệ,
140 suất đội, 7 ngàn biền binh, 2 ngàn lại dịch
dưới quyền vị
Đại học sĩ Trương đăng Quế
ngày đêm lao tác. Trong lúc nơi
đặt mộ chưa
hoàn chỉnh, thi hài của vua được gìn giữ
ở thuyền rồng
trên con sông phía trước.
Đến
ngày 20-8-1841 quan tài nhà vua mới
chính thức được đưa
vào Bửu Thành nhập Lăng. Toàn bộ khu vực Lăng Minh Mạng
rộng 28 mẫu, chung quanh có tường dày cao 2 mét 50 bao bọc, chu vi 1 ngàn 723 mét, được hoàn chỉnh năm 1843 đúng theo đồ án được
nhà vua phê duyệt trước đây.
Cảnh hồ bên cạnh Lăng Minh Mạng.
Vùng Lăng Minh Mạng nằm ở núi Cẩm Khê, ấp An Bằng,
Huyện Hương Trà, Huế gồm 20
khu vực đền đài, phía trước là sông, hai bên là hồ và phía sau là núi. Khi vào lăng, phải qua Đại Hồng
Môn, Bái Đình (Sân chầu),
Nhà Bia, Hiền Đức Môn, Điện Sùng Ân (nhà thờ),
Hoằng Trạch Môn, Cầu Trung Đạo,
Minh Lâu, Cầu Thông Minh
Chính Trực, cuối cùng là Lăng Mộ vua tựa vào chân núi.
Hai bên đường vào Lăng nầy là các kiến trúc như Hồ Trừng Minh, Nghênh Lương Quán, Điếu Ngư Đình, Hồ
Tân Nguyệt, Truy Tư Trai, Quan Lan Sở, Linh Phương Các, Tả
Tùng Phòng, Hữu Tùng Phòng
và Hư Hoài Tạ. Bàn thờ vua nơi
Điện Sùng Ân được sơn
son thếp vàng, bên phải là bàn thờ Bà Hồ Thị Hoa,
người vợ bạc
phước chỉ sống
với ông có hơn 01 năm, sau khi sanh Hoàng Tử Đãm (vua Thiệu Trị) được 13
ngày thì mất. Lăng Minh Mạng được đánh giá là công trình kiến trúc tuyệt
diệu về nghệ thuật tạo hình, đúng phong thổ dịch
lý, theo kiểu Á Đông và Việt Nam . Người đi tham quan cảm thấy thích thú khi thanh thãn bước từng bước đi ngắm phong cảnh
đền đài trong Lăng, lắng đọng lòng mình để
hòa hợp với núi hồ, sông nước
rất thâm nghiêm, hữu tình, thơ mộng
chung quanh.
Quay trở lại
con đường đã đi xuyên qua rừng cây râm mát ngút ngàn, xe dừng lại Lăng vua Khải
Định nằm sát cạnh đường.
Khu vực Lăng chỉ rộng
một (1) mẫu tây với Lăng tẫm
và những đền điện hoàn toàn khác với
Lăng Minh Mạng. Lăng vua Khải Định
tọa lạc ở
núi Chóp Vung và Kim Sơn nằm trong tư thế rồng chầu, hổ phục cách Lăng Minh Mạng bởi dòng sông Hương
không xa lắm. Hoàn toàn khác
với Lăng Gia Long và Lăng
Minh Mạng cũng như với
các Lăng khác của các vua
nhà Nguyễn vốn với
nét cổ kính Á đông, Lăng Khải Định
xây dựng tốn kém thời gian và tiền
bạc rất lớn.
Thời gian thực
hiện kéo dài 11 năm (từ 1920 đến 1931), trong lúc Lăng Minh Mạng 4 năm; Gia Long 6 năm và Tự Đức
chỉ có 3 năm. Kỷ thuật kiến
thiết hoàn toàn mới lạ,
theo kiểu cách phương Tây và do Pháp phụ trách thực hiện, bảo vệ
vì vị vua nầy hoàn toàn theo chính sách cai trị của
người Pháp.
(Bên trong)
Phía trước lăng Khải Định
(Đường lên lăng-ảnh Flicks(Bên trong)
Lăng Khải Định.
Ảnh: HX
Trong khu vực cũng có phía trước là Khe Châu Ê, Tả hữu
Tòng Tự, Sân Chầu, Nhà Bia, Trụ Biểu,
Điện Khải Thành, Lăng đặt thi hài, Điện thờ, Tả hữu Trực phòng, sau cùng là núi tựa. Từ cổng chính vào đến Lăng có cả thảy
127 bậc cấp thang bằng đá xanh lên cao dần.
Lối chạm trổ các đền
điện bên trong cũng hoàn
toàn mới lạ với
đá hoa cương, sành sứ, thủy tinh, kim loại
quý hiếm bằng nghệ thuật
điêu khắc chạm trổ tinh vi, sắc
sảo, cầu kỳ với vật liệu xi măng cốt sắt.
Ngoài ra còn có hai tượng đồng của nhà vua; một
tượng ngự trên ngai vàng và một tượng đứng,
điều nầy chưa bao giờ
có trong Lăng tẫm các vị vua khác. Đến Lăng Khải Định,
du khách có dịp chiêm ngưỡng một nét đổi
mới hoàn toàn trong nghệ thuật điêu khắc
đền đài của Việt Nam
ở thời đại
này vì đã được canh tân theo
kiểu cách kỷ thuật Tây phương
rất tinh xão, pha chút cổ kính Á đông. Hình dáng toàn cảnh trên cao trong bản đồ
nhìn trông giống như hình một chiếc
cell phone đời mới ngày nay, bên trong tràn ngập những lâu đài kiên cố
như ở Châu Âu, không có nhiều cây xanh cổ thụ
rợp bóng như những
nơi khác.
Buổi chiều
ngày 23-4-2012, sau khi dùng cơm
trưa tại nhà hàng, đoàn tham quan được viếng thăm Thành nội
Huế, kinh đô của 13 triều đại nhà
Nguyễn, từ Gia Long cho đến vị
vua cuối cùng là Bảo Đại.
Hoàng cung được bao quanh bởi vòng thành kiên cố ngăn cách bên ngoài bởi hồ
nước sâu để bảo
vệ cạnh bờ sông Hương
thơ mộng. Từ ngoài vào có Ngọ
môn, Điện Thái Hòa, Tử Cấm
Thành, Thế Miếu, Hiển Lâm Các, Cửu
Đỉnh. Điện Thái Hòa là nơi hội
họp triều nghi quay hướng về phía nam, phía trước
có trụ cờ cao nhất nước đặt trên bục tháp 3 tầng
hình vuông. Sau trụ cờ là sân rộng nơi tập luyện các binh sĩ hay họp
dân vào các kỳ lễ lớn. Điện xây ở độ cao phía trước có cầu ván, phòng khi có giặc
tấn công cầu được rút đi để
ngăn giặc. Theo nghĩa tìm hiểu, Thái Hòa không phải là hòa bình, an lạc mà mang ý nghĩa: Vua phải hòa hợp một
lòng với quan và dân thì mới có được an bình, thịnh
vượng cho đất nước. Điện
có ngai vàng cho vua ngự,
bao quanh bởi hàng lớp Hoàng thân quốc thích trong Hoàng gia, xuống bậc thấp hơn mới
tới các quan trong triều từ
lớn đến nhỏ, từ nhứt phẩm đến cửu phẩm. Lần
vào bên trong có rất nhiều cung, nhiều điện dành cho vua, hoàng hậu, thứ
phi, cung nữ, thái giám,
lính vệ, phục dịch.
.
Cung Hoàng Hậu.
Ảnh: HX
Vua Minh Mạng gồm trên 500 thứ
phi, với cả trăm đứa con nên việc
tạo dựng cơ ngơi và
phục dịch thật là lớn
lao, tốn kém. Cơ ngơi
giữa các cung, điện, nhà trù được phân cách bởi thành vách cao kiên cố và những đường
đi thẳng tấp, phẳng đẹp rợp bóng cây xanh và vườn hoa đủ loại.
Hoàng cung nằm cạnh đại lộ
trung tâm thành phố Huế, được kiến
trúc rất kiên cố, nguy nga tráng lệ và đẹp mắt rất đúng theo phong thủy và dịch lý Á đông. Hoàng cung nhà Nguyễn ở
Huế là di sản của
Việt Nam được tổ
chức UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế
giới.
Rời Hoàng Cung triều
Nguyễn cổ kính, chúng tôi đi thăm Chùa Thiên Mụ. Chùa được xây năm 1601 dưới
thời Chúa Nguyễn Hoàng, được trùng tu rất nhiều lần qua
nhiều thời kỳ chúa Nguyễn phúc Tần, Nguyễn
phúc Chu., vua Gia long, vua Thiệu
Trị. Phía trước chùa cạnh dòng sông có xây tháp Phước Duyên gồm
bảy (7) tầng, cao 21 mét 28; mỗi tầng
thờ một vị
Phật. Tầng cuối có tượng
Phật Thích Ca bằng vàng.
Trước tháp còn lưu bia đá khắc ghi ngày tu bổ qui mô thời vua Thành Thái thứ
11. Theo tìm hiểu, sở dĩ có tên chùa Thiên Mụ vì theo dân làng kể lại
cho chúa Nguyễn Hoàng khi
chúa đến viếng vùng này rằng: Trước kia có một
bà tiên lông mày và tóc bạc
phơ mặc áo đỏ hiện ra
cho biết vùng này sẽ là nơi phát khởi
một triều đại
mới của lịch
sử. Chúa Nguyễn Hoàng rất vui mừng
nghĩ đó là triều đại của
các con cháu mình nên liền
cho xây chùa tại đây, đặt tên Thiên Mụ để
thờ bà tiên trên. Điều tiên tri nầy đã thực sự xãy
ra với triều đại
Nguyễn.
Chùa Thiên Mụ Huế.
Dòng sông Hương thơ mộng.
Ảnh: HX
Nói đến Huế mà không nói đến
sông Hương là một điều thiếu
sót lớn. Kinh thành Huế nằm
dựa cạnh sông Hương, dòng sông êm đềm
nổi tiếng của cả nước.
Đêm về, đoàn tham quan ngồi trên thuyền máy đang trôi lững lờ, nghe các cô gái Huế
hát những bài ca tình tự quê hương bằng
âm điệu Huế dễ
thương, du dương trầm bỗng,
cùng những hình bóng đáng
yêu và nét vóc yểu điệu với
chiếc áo dài lụa mõng đang bay bay trong làn gió nhẹ.
Các cô gái
Huế đang hát trên thuyền máy.
Hàng chục chiếc ghe máy với
ánh đèn mờ ảo, nhấp nhô đang thã trôi trên sông lững lờ như đang
đi tìm thơ mộng. Xa xa đàng kia là cây cầu Tràng Tiền sáu vại
mười hai nhịp, bắc ngang qua dòng sông về đêm rực
rỡ ánh đèn pha từ luồng
xe đang qua lại tạo nên hình ảnh lung linh trông thật đẹp
mắt, hấp dẫn.
Lưu lượng khách kẻ lên người
xuống bến ghe để thưởng
thức cái cảm giác say mê câu hò điệu hát miền Huế
trên sông Hương về đêm thật là tấp
nập như mấy
câu ca dao đã diễn tả:
Đất Thừa Thiên Huế
trai hiền gái lịch,
Non xanh nước
biếc, điện ngọc, đèn rồng.
Tháp bảy
tầng, Thánh miếu, chùa Ông,
Chuông khua Diệu
Đế, trống rung Tam Hòa.
Cầu Trường
Tiền mười hai nhịp bắc
qua,
Tả Thanh Long, hữu
Bạch Hổ đợi khách âu ca thái bình.
Và:
“Huế mộng Huế
mơ,
Huế không thơ
không mộng”.
Từ đó tôi lẫm bẫm vài
ý thơ vừa mới
nhen nhóm trong lòng:
Anh
về nắn
lại mấy vần thơ,
Để nhớ
về em hồn dật dờ.
Đến để
mà chi xa thấy nhớ,
Nhớ em đẹp
mãi tựa trong mơ”.
Rời khỏi
khoang thuyền lên bờ chia tay bao nhiêu câu hò điệu hát, bao nhiêu ý sông tiếng nước vẫn còn
đậm nét trong tâm tư.
Sáng ngày 24-4-2012, chúng tôi bắt đầu
rời khỏi những di tích cổ
kính Huế để thẳng
hướng về động
Thiên Đường, thuộc tỉnh
Quãng Bình, cách xa Huế hơn 4 giờ đi xe, xuyên đường mòn Hồ Chí Minh. Con đường nầy
không còn hình dáng của con
đường mòn đầy vết
bom đạn chạy dọc
theo dãy Trường Sơn như trong thời
kỳ chiến tranh Việt Nam .
Bây giờ đường
được nâng cấp, tráng nhựa thẳng tấp,
phẳng phiu như con xa lộ nhỏ. Dọc theo hai bên đường là rừng thông bạt
ngàn và núi non hùng vĩ không cách xa biên giới Lào Việt
bao nhiêu. Thỉnh thoãng cũng
thấy có những rừng cao su, nhưng
không tốt bằng cao su miền đông Nam bộ như
Tây Ninh, Bình Phước, Biên
Hòa hay Bình Dương. Cũng có
những thửa ruộng và bắp
nhưng sơ xác, cằn cỗi, có
lẽ đất xấu
hay thiếu chăm sóc. Động Thiên Đường không có sông như Phong Nha mà chỉ có núi non trùng điệp, thuộc dãy Trường
Sơn. Xe đổ bến.
Du khách phải lên xe đánh
golf đi đến chân núi cách đó
vài cây số. Hang động Thiên Đường mới được
ông Hồ Khanh, một người dân địa
phương phát hiện vài năm gần đây (1995) và được các nhà thám hiểm Hoàng gia Anh đưa vào khai thác năm 2005 vì được đánh giá là thạch động dài và đẹp
nhứt thế giới.
Động Thiên Đường nằm trên độ
cao thẳng dốc, phải bước
trên 530 bậc thang xây bằng đá xanh mới tới
được cửa miệng hang. Chúng tôi phải
dừng chân nghỉ mệt
đôi ba lần trên đường leo trèo dốc đứng.
Từ cửa động
người ta phải lần
bước xuống trên 400 bậc thang nữa mới tới nơi
thật sự ngắm
được cảnh Thiên Đường. Động Thiên Đường
có độ cao trần từ
30 đến 150 mét.
Thiên Đường! Thiên
Đường! Phải thừa nhận đây quả thật là
Động Thiên Đường hiện hữu nơi trần thế.
Vào trong động du khách mới thấy được sự kỳ ảo, tuyệt
vời của tạo
hóa. Nhiều hình ảnh rất gợi cảm, giống như một triều đình của
Vua Trời, nhiều tượng đá thạch
nhủ giống như Đức Phật, Đức Mẹ Maria,
Đức Phật Quan Thế Âm, hình tượng
nữ nhân xõa tóc, ảnh các quan thần đang chầu Vua Trời,
cảnh mây nước mênh mông, bầu trời cao vút bao la, ảnh
nữ tu hóa đá ….rất nhiều và nhiều
vô tận không sao kể xiết.
Dù mệt mõi bao nhiêu khi
nhìn thấy những hình ảnh thạch
nhủ nầy, những tượng
đá thiên nhiên, hang động
xinh xinh kỳ bí, du khách mới
cảm nhận thật sự mãn
nguyện khi đến được nơi
đây. Tôi gặp một nữ
du khách người Mỹ, từ
thành phố Michigan , bà Michelle Duane. Khi tôi hỏi: “Bà nghĩ thế nào khi đến nơi
đây?”.
Michelle mĩm cười vui vẻ,
trả lời:
“- Đẹp tuyệt vời! Dù ta có chụp 100, hay 1000 bức ảnh
cũng không diễn tả hết
cảnh đẹp nầy.
Muốn thưởng thức trọn vẹn cái đẹp thực sự đó chỉ có một
cách duy nhất là phải đến
được nơi đây chiêm ngưỡng thôi. Chúng ta được diễm phúc đó!”
Thạch nhủ Động Thiên Đường. Ảnh: HX
Động Thiên Đường
dài 31 km 4, nhưng chỉ mới
khai thác và cho tham quan hơn
01 cây số. Nghe các chuyên
viên thám hiểm cho biết vừa
khám phá mới nhất thêm 7 kí-lô-mét nữa, có nhiều cảnh thạch nhủ đẹp như những
bức tranh phù điêu khổng lồ, những
buồng hang rộng như những
nhà hát lớn, những thạch nhủ
non đang lớn, những mái thạch nhủ
óng ánh. Ngoài ra, cũng có những
dòng suối mơ với
nước trong vắt không gợn một
chút hạt dơ, chảy lờ lững bên cạnh khối
đá mềm đủ màu sắc. Kinh ngạc nhất là “hành lang đá vàng” như đã từng
nghe trong các chuyện huyền thoại về
Thiên đình hay cột thạch nhủ trắng
tinh kỳ lạ cao từ 7 mét đến 25 mét. Theo các nhà khoa học, thành nhủ
ở hang động nầy được
hình thành trong khoảng thời gian từ 35 đến
36 triệu năm. Hy vọng trong thời gian gần nhất,
du khách sẽ có thể đến
được những bước kế tiếp để
chiêm ngưỡng những cái đẹp mới nhứt nầy
của thế giới.
Thạch nhủ nâu rất hiếm có trên thê giới
Thạch nhủ nâu rất hiếm có trên thê giới
(có thêm 1 số ảnh từ Google)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét