Viết cho mùa báo hiếu nhớ về Mẹ chồng tôi
Viết cho mùa báo hiếu nhớ về Mẹ chồng tôi
TỰ GIỄU
(Vui trào phúng)
Rõ chán mớ đời chuyện máu thơ
Ngôn từ Xào sáo chữ mòn xơ
Đọc vô quán hạ, vần vênh váo
Ngẫm chả ân thâm, ý hợt hờ
Mẹ "đĩ" càm ràm mồm giễu nỏ
Gã gàn giật thột mặt vờ ngơ
Đôi khi giở thói còn giao - gạ
Đâu thích, đây nhường sớm "rước" cho!
Nguyễn Huy Khôi (2-8-2025)
Thơ Họa :
HỌA: KHÔNG PHIỀN CHI
Thói đời sao chán thú tìm thơ,
Tâm ý khác nhiều ngọt héo xơ.
Không thích biến căng vênh váo váo,
Yêu thương vẹn vẻ giữ xua hờ.
Giọng khàn tay vẫn bền vương nỏ,
Tiếng tắt dạ còn chẳng dám ngơ.
Tình nghĩa giữ muôn năm khó gạ,
Yên vui vần vận sẵn trao cho.
*
Tình người giữ vẹn vẻ thơm tho.
HỒ NGUYỄN (27-8-2025)
THỨ THA CHO
THÍCH ĐÙA
Cao trào chú Cuội giễu nàng thơ
Công nhận gây cười nghĩa xác xơ
Cá tính câu trêu còn lớ ngớ
Câu thơ tứ cợt lắm ơ hờ
Công tâm thấu hiểu nào hơ hớ
Công luận chan hòa chẳng ngẩn ngơ
Cố chấp đầy hông sao dễ thở!
Cưỡng nàng ép gả ả Hằng cho…
Đức Hạnh
01 09 2025
Kính Họa Vận : THỦ PHẬN…!
Vanvn- Tây Ninh đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ, vươn lên trở thành điểm đến du lịch đặc sắc, giàu tiềm năng bậc nhất phía Nam.
Dòng chảy lịch sử, hòa quyện bản sắc văn hóa
Tỉnh Tây Ninh mới là vùng đất hình thành trên 2 dòng sông song sinh Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Với diện tích hơn 8.500 km², phía đông giáp TP.HCM và Đồng Nai, phía tây giáp Đồng Tháp, phía bắc và nam tiếp giáp Campuchia và có một phần thuộc vùng ĐBSCL, Tây Ninh không chỉ là điểm trung chuyển chiến lược mà còn là nơi lắng đọng tinh hoa lịch sử và văn hóa của cả một vùng Nam bộ.
Một góc trong quần thể du lịch núi Bà Đen. Ảnh: Sở Vh-Tt-Dl Tây NinhTây Ninh là mái nhà chung của 21 dân tộc anh em. Dù dân số dân tộc thiểu số không lớn, nhưng sắc màu văn hóa của họ in đậm trong đời sống tinh thần của vùng đất này. Từ lễ hội Quan lớn Trà Vong là lễ hội truyền thống của người dân Tây Ninh (cũ) đến các làng nghề, lễ hội dân gian của người Chăm, người Hoa, tất cả cùng nhau tạo nên bản giao hưởng văn hóa hài hòa, đậm bản sắc.
Tây Ninh tự hào là địa phương sở hữu 2 bảo vật quốc gia, 49 di tích cấp quốc gia, 173 di tích cấp tỉnh và 16 di sản văn hóa phi vật thể trong danh mục quốc gia. Trong đó, nổi bật như: Tượng thần Visnu Gò Trâm Quỳ, Bản minh văn Gò Xoài, các tháp Chót Mạt – Bình Thạnh – Gò Ô Chùa, hay đình An Tịnh và đền thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức. Không chỉ gìn giữ di sản, Tây Ninh còn là nơi tiếp biến văn hóa đặc biệt – nơi mà văn hóa tôn giáo như Cao Đài không chỉ là tín ngưỡng, mà còn trở thành một phần của bản sắc địa phương.
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ phong trào khởi nghĩa chống Pháp thế kỷ XIX, đến cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng quê hương thời kỳ đổi mới, con người Tây Ninh luôn hiện diện với phẩm chất “trung dũng, kiên cường”. Nơi đây từng là căn cứ Xứ ủy Nam bộ, là Trung ương Cục miền Nam. Đó là nền tảng vững chắc để vùng đất này tiến lên trong kỷ nguyên mới.
Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh. Ảnh: Sở Vh-Tt-Dl Tây NinhĐột phá du lịch trong kỷ nguyên mới
Bước sang giai đoạn phát triển mới sau khi sáp nhập tỉnh Long An và Tây Ninh cũ vào tháng 6.2025, Tây Ninh trở thành địa phương sở hữu vị trí “cầu nối” chiến lược giữa TP.HCM, ĐBSCL và Vương quốc Campuchia. Sự hội tụ về địa lý này mở ra không gian liên kết vùng thuận lợi, tạo đòn bẩy mạnh mẽ để du lịch Tây Ninh cất cánh.
Tây Ninh hiện có đầy đủ điều kiện để phát triển các loại hình du lịch: du lịch tâm linh, sinh thái, văn hóa – lịch sử, nghỉ dưỡng, nông nghiệp công nghệ cao. Núi Bà Đen, với hệ thống cáp treo hiện đại, tiếp tục là điểm đến hút khách bậc nhất. Từ đầu năm 2025 đến nay, đã có hơn 7 triệu lượt khách đến Tây Ninh, khẳng định vị thế điểm đến du lịch văn hóa – tâm linh hàng đầu phía Nam.
Cánh đồng bất tận trong quần thể du lịch sinh thái vùng Đồng Tháp Mười trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Ảnh: Sở Vh-Tt-Dl Tây NinhBên cạnh đó, Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát, Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen, hồ Dầu Tiếng… là những “viên ngọc xanh” quý giá cho phát triển du lịch sinh thái bền vững. Các công trình tín ngưỡng độc đáo như Tòa thánh Cao Đài, đền thờ Ông Cả Đặng Văn Trước, các di tích cách mạng… đã và đang thu hút sự quan tâm của du khách trong, ngoài nước.
Ông Trần Anh Minh, Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Tây Ninh, khẳng định: “Chúng tôi xác định phát triển du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa – lịch sử, đồng thời khai thác tối đa tiềm năng sinh thái tự nhiên. Việc sáp nhập tỉnh tạo thêm dư địa, không gian và nguồn lực để Tây Ninh đột phá về hạ tầng, sản phẩm và thương hiệu du lịch”.
Trên thực tế, hạ tầng du lịch Tây Ninh đang được đầu tư đồng bộ. Hệ thống cao tốc, vành đai, bến cảng, logistics, kết nối liên vùng được đẩy mạnh. Các dự án du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng như Eco Retreat, khu đô thị ven hồ Dầu Tiếng, cụm du lịch đường thủy dọc sông Vàm Cỏ… đang trong quá trình triển khai, hứa hẹn định hình lại bản đồ du lịch phía Nam.
Du lịch sinh thái vùng Đồng Tháp Mười trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Ảnh: Sở Vh-Tt-Dl Tây NinhChị Nguyễn Thị Thu Huyền, du khách đến từ Hà Nội, chia sẻ: “Tôi rất bất ngờ khi lần đầu đến Tây Ninh. Không chỉ có núi Bà Đen đẹp và linh thiêng, mà các điểm sinh thái như Lò Gò – Xa Mát, hay văn hóa Cao Đài cũng rất độc đáo. Tôi thấy đây là nơi xứng đáng để quay lại nhiều lần”.
Hội tụ quá khứ, kiến tạo tương lai
Tây Ninh cũng đang khai thác thế mạnh du lịch di sản gắn với cộng đồng. Hàng trăm lễ hội dân gian, văn hóa truyền thống của các dân tộc được phục dựng, tổ chức hằng năm. Những sản phẩm OCOP, ẩm thực địa phương như muối tôm, bánh tráng phơi sương, dứa Bến Lức, mía Tân Châu…không chỉ là hàng hóa mà còn là “sứ giả văn hóa” của vùng đất.
Một sân golf ở tỉnh Tây Ninh. Ảnh: Sở Vh-Tt-Dl Tây NinhĐặc biệt, chiến lược phát triển du lịch của Tây Ninh giai đoạn 2025 – 2030 xác định 3 đột phá: Phát triển hạ tầng và giao thông liên kết vùng phục vụ du lịch; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch; Đa dạng hóa sản phẩm, gắn du lịch với bảo tồn văn hóa và phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Cùng với chủ trương chuyển đổi số, Tây Ninh hướng đến xây dựng hệ sinh thái du lịch thông minh: từ bản đồ số, ứng dụng du lịch tích hợp, cho đến hệ thống quản lý và quảng bá điểm đến hiện đại. Đây là bước đi chiến lược nhằm bắt kịp xu hướng, tạo trải nghiệm tiện lợi, an toàn và cá nhân hóa cho du khách.
Tây Ninh đang bừng tỉnh mạnh mẽ trong kỷ nguyên phát triển mới. Trên nền tảng văn hóa đa sắc, bề dày lịch sử và tiềm năng du lịch đặc sắc, cùng chiến lược phát triển bài bản, tỉnh hội đủ điều kiện để vươn mình trở thành trung tâm du lịch – văn hóa – kinh tế phía Nam.
Một hoạt động trong lễ hội Làm Chai ở tỉnh Tây Ninh. Ảnh: Sở Vh-Tt-Dl Tây NinhSự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa bảo tồn và khai thác thông minh, giữa thiên nhiên và con người, chính là lời mời gọi thiết tha mà Tây Ninh muốn gửi đến du khách gần xa: Hãy đến, để cảm nhận, để khám phá một vùng đất chưa từng ngừng chuyển động – Tây Ninh, điểm đến du lịch đa màu sắc văn hóa.
BẮC BÌNH/ TN
Xem Thêm
Vanvn- Lấy cảm hứng từ thảm sát Gwangju năm 1980, tiểu thuyết Bản chất của người của Han Kang (Hàn Quốc) không chỉ tái hiện những ký ức tập thể bị chôn vùi mà còn đặt ra câu hỏi nhức nhối về lương tri và bản chất con người.
Trong cuốn tiểu thuyết “Bản chất của người”, tác giả Han Kang (Hàn Quốc, Nobel Văn chương 2024) đã mạnh mẽ bước vào vùng ký ức đau đớn để viết về một sự kiện lịch sử đầy đau thương. Bà cho chúng ta thấy sự sống mong manh đến như thế nào, ranh giới mờ mịt giữa thiện và ác, về sự bất ổn của lương tâm khi quyền lực và lòng tham con người đã đủ lớn. Trong tác phẩm này, Han Kang đã đặt ra một câu hỏi lớn cho chính bản thân bà cũng như những độc giả của bà: “Nếu vậy, câu hỏi còn lại đối với chúng ta chính là: Con người là gì? Và để con người không trở thành thứ gì đó khác, thì chúng ta phải làm gì?”

Không phải ai cũng có thể trả lời được câu hỏi “con người là gì?” – nghe có vẻ đầy tính triết lý nhưng thực chất nếu chúng ta hiểu rõ về bối cảnh lịch sử của người dân Hàn Quốc tại Gwangju lúc bấy giờ thì sẽ hiểu được phần nào tại sao những câu hỏi như thế này lại đi theo xuyên suốt tác phẩm trong từng chương và từng nhân vật.
Vào tháng 5 năm 1980, tại thành phố Gwangju, Hàn Quốc bùng nổ một cuộc nổi dậy chống lại chế độ độc tài quân sự mới lên nắm quyền sau cuộc đảo chính của Chun Doo-hwan. Ban đầu chỉ là những cuộc biểu tình của sinh viên đòi dân chủ. Nhưng khi quân lính được điều đến , tiếng hô khẩu hiệu nhanh chóng bị thay thế bằng tiếng súng. Đối mặt với hàng trăm sinh viên cùng với người dân, quân đội chính phủ huy động lực lượng quân lính cùng với các vũ trang hạng nặng như súng, xe tăng để khống chế đoàn biểu tình. Trong vòng mười ngày đã có tới nhiều người (con số thực bị che giấu bởi chính phủ) dân thường bị tàn sát dã man, người sống sót thì bị bắt giữ, tra tấn, khá nhiều trường hợp được tính là mất tích.
Trong nhiều năm, chính quyền tìm cách xóa bỏ sự kiện này khỏi ký ức tập thể. Các nhân chứng bị bịt miệng, báo chí bị kiểm soát, và nỗi sợ hãi bao trùm toàn thành phố Gwangju. Giống như nội dung trong chương cuối “Ngọn đèn tuyết phủ”, bố mẹ Han Kang ngoài đời luôn thì thầm to nhỏ với nhau để giấu bà về tình hình đất nước, cho đến khi một lần tò mò lấy cuốn sách mà bố mẹ đã giấu kín ra coi, một khuôn mặt của người phụ nữ bị lưỡi lê chém toác má và cổ đã khiến cho tâm hồn yên bình của bà lúc bấy giờ trở nên xáo động. Có thể thấy rằng bà đã lớn lên trong một xã hội nơi cái chết của hàng trăm người được gói gọn trong sự im lặng. Bản chất của người chính là tiếng nói để Han Kang có thể đào sâu vào những ký ức bất tử ấy, không chỉ bằng việc kể lại các sự kiện, mà bằng cách trao thân thể và tiếng nói cho những người bị tước đoạt chúng. Không ủy mị, không cường điệu hóa câu chuyện của mỗi số phận, Han Kang cạo sạch lớp cảm xúc trên trang văn bản của mình bằng giọng văn trung tính. Nó như một sư tương phản mạnh với những sự kiện đầy đau thương trong tác phẩm và chính nhờ thế tác phẩm này lại càng trở nên ám ảnh với bạn đọc.
Tác phẩm bao gồm 6 chương cùng một chương kết cuối cùng. Giống như những thước phim với nhiều góc quay đầy chân thực, mỗi con người trong từng chương đều sống động, đặc biệt trong “Chương 2: Hơi thở đen”, tác giả đã sử dụng điểm nhìn của một linh hồn sau khi bị giết chết bởi quân lính. Đấy là linh hồn của Jeong Dae đang quẩn quanh xác mình giữa núi thi thể. Nữ tác giả gợi lên một không gian đầy xác thịt và máu, xác người chất đầy lên nhau như một con quái vật nhiều tay chân to lớn, nhưng nỗi cô đơn vất vưởng của các linh hồn mới chính là ca khúc u uất đầy ám ảnh. Khi chết đi, linh hồn vẫn thấy được thi thể của chính mình. Chi tiết này trở nên nặng nề khi linh hồn luôn phải đối mặt với thi thể của mình, ngày ngày chứng kiến nó thối rữa dần trong từng bộ phận cơ thể, để rồi căm ghét cái thứ đó, cái thứ thân xác của chính mình bị đánh đập đến dị dạng, bị đối xử như súc vật, sâu bọ. Cho đến khi quân lính đem thiêu rụi đốt sạch “tháp xác người”, lúc này linh hồn mới có thể bay đi khỏi thân xác hoàn toàn.
Lúc này tôi mới hiểu ra, thứ bấy lâu nay giữa chúng tôi lưu lại chốn này chính là những da thịt, những râu tóc, những cơ xương, những nội tạng kia.
Thân thể – hay còn được gọi là những nhân chứng của lịch sử, lại chính là sự ô nhục, căm thù hiện rõ trên từng vết thương của những nạn nhân. Khi thân xác hóa thành ngọn lửa rồi tàn tro, linh hồn mới có thể thoát ly được bởi sự áp bức của bạo lực. Han Kang đã tạo dựng hai hình ảnh đối lập về lương tâm của con người và sự độc đoán của quyền lực qua các chi tiết ẩn dụ.
Những kẻ máy móc làm theo mệnh lệnh của bề trên, luôn mặc quân phục rằn ri, đi bốt, tay cầm súng, đầu đội mũ cùng với khiên chắn lớn. Theo đấy là những hình ảnh của cổng sắt, tiếng kim loại, động cơ, ánh đèn xe tải được nhắc đi nhắc lại như một cơn ác mộng không nguôi ngoai. Đưa những vật thể lạnh lẽo gắn với đội quân mặc quân phục chính là lột tả sự lạnh lùng đến vô nhân tính của họ. Việc xử lý xác người được họ thực hiện lặp lại mỗi ngày như đoàn quân robot (người máy) được lập trình sẵn bởi chính phủ, vô hồn và lạnh lẽo. Trái ngược với những kẻ mặc quân phục tàn bạo, những linh hồn vốn đã mất đi thể xác, nhưng bản chất thiện lương chính là thứ khiến linh hồn mang tính “người” hơn.
Linh hồn – những con người vô tội trở thành những oan hồn vất vưởng, bay xung quanh thân xác của mình và nhìn những kẻ ác nhân mỗi ngày chở những cái xác mới chất chồng lên nhau. Khi chúng châm ngòi đốt xác, cộng đồng linh hồn tìm đến nhau để an ủi, chạm vào, dựa vào, xoa dịu bóng của nhau khi chứng kiến ngọn lửa lớn nuốt chửng xác thịt của mình. Không còn xác thịt, nhưng lương tâm và bản chất lương thiện vẫn luôn hiện hữu. Những hình ảnh đó như một lưỡi dao sắc lẹm cứa vào trái tim bạn đọc. Đọc xong cuốn sách có thể thấy rằng sự kiện đàn áp đẫm máu trong quá khứ đó đã khiến bà mang những vết thương trong tâm trí, và chỉ khi cuốn sách này được viết ra thì nỗi đau không tên đó mới được xoa dịu, chữa lành.
Nữ tác giả đã mô tả những xác thịt, máu, ruột gan bị dập nát, biến dạng của các thi thể xấu số để lột tả sự tàn ác của những kẻ phục vụ cho chính phủ độc tài vô nhân tính. Nhưng bên cạnh đấy là sự khéo léo lồng ghép nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhưng khi nhìn thấu được thì độc giả lại càng xót xa cho sự cô đơn và lạnh lẽo của những nạn nhân. Những linh hồn trong trang văn là những con người lạc lối, yếu đuối và mỏng manh. Họ cố gắng đi tìm sự kết nối cộng đồng, cố gắng có thể giao tiếp được với nhau dù chỉ có thể lướt qua nhau. Sự tương tác của các linh hồn đều rất mập mờ, kỳ lạ gợi tưởng ra một chiều không gian siêu thực, đầy u uất.
Những câu hỏi luôn vang lên trong sự mơ hồ về cái chết.
Ai đã giết tôi? Ai đã giết chị tôi? Tại sao lại giết chúng tôi?
Con người. Chẳng phải chúng ta đã chứng kiến quá nhiều tài liệu lịch sử về việc con người giết hại lẫn nhau vì quyền lực, tranh chấp lãnh thổ, vì màu da, vì giới tính…thế nhưng câu hỏi nêu trên vẫn luôn kéo dài suốt lịch sử loài người. Kẻ cầm súng đang ghim nòng trên trán cậu, đôi bàn tay đấy cũng giống cậu, con mắt, cái miệng, và độ tuổi đấy, nhưng tại sao lại chọn nổ súng? Lương tâm. Đúng vậy, là lương tâm. Nó là thứ đáng sợ nhất trên thế gian này. Bởi khi đối mặt với những kẻ vô nhân tính, lương tâm trở thành thứ giết chết chính mình.
Vậy nhưng chúng ta thậm chí còn không bóp nổi cò của những cây súng đó. Những cô cậu học sinh đã tìm được súng để phòng thủ khi quân lính ập vào, nhưng chính họ lại không một ai dám nổ súng, và họ cay đắng khi cái mà gọi là lương tâm đã tước mất cơ hội để họ tự bảo vệ mình. Nỗi dằn vặt trở thành tiếng khóc âm ỉ của những oan hồn không thể giải đáp được cái chết của chính mình và người thân. Cuối cùng, một tiếng nổ tựa như hàng ngàn cây pháo hoa cùng lúc bắn vọt lên, Jeong Dae biết được đấy là âm thanh của sự chết chóc, người bạn thân nhất của cậu – Dong Ho đã bị giết chết.
Cái chết của Dong Ho, với Jeong Dae, không chỉ là mất đi một người bạn, mà còn là mất đi sợi dây cuối cùng níu cậu vào thế giới của sự sống. Trong khoảnh khắc ấy, Han Kang không viết bằng những câu chữ ồn ào, không gào thét hay khóc lóc thay nhân vật. Bà để khoảng trống, để người đọc tự nghe tiếng đạn xuyên qua không khí, tự thấy sự sụp đổ im lặng của trái tim. Đó là thứ im lặng nặng nề hơn mọi tiếng súng – im lặng của ký ức bị chôn vùi, im lặng của lịch sử bị bưng bít, và im lặng của những con người bị tước đoạt cả sự tồn tại lẫn tiếng nói.
Điều đặc biệt trong Bản chất của người là cách Han Kang buộc người đọc đối diện trực diện với thân thể, không phải như một khối xác vô tri, mà như một trang sử bị khắc bằng máu. Mỗi vết thương, mỗi thớ thịt bầm dập, mỗi đôi mắt mở trừng trong vô thức đều là chứng cứ sống cho tội ác đã diễn ra. Thân thể trong tác phẩm không chỉ mang nỗi đau cá nhân, mà còn chứa đựng ký ức tập thể của cả một dân tộc. Nó buộc người đọc, dù muốn hay không, phải trở thành nhân chứng thứ hai phải chứng kiến, tiếp nhận, và không được phép quên.
Han Kang không để thân thể chỉ nằm bất động, bà trao cho nó khả năng “lên tiếng” qua sự hiện diện nặng nề của nó trong từng trang sách. Và tiếng nói ấy không phải lúc nào cũng được nghe bằng tai, đôi khi đó là mùi tử khí len lỏi trong từng câu chữ, là hình ảnh thịt da cháy khét bám vào trí nhớ người đọc, là sự im lặng kéo dài đến mức nhức nhối. Tiếng nói ấy, đôi khi mạnh hơn mọi lời kể.
Chương cuối cùng của cuốn sách, “Ngọn đèn tuyết phủ” quay trở lại với chính tác giả, như một vòng khép tròn ký ức. Đó không chỉ là câu chuyện của những người đã khuất, mà còn là câu chuyện của thế hệ tiếp theo. Những người lớn lên trong bóng tối của sự kiện, cố gắng chắp nối sự thật từ những mảnh vỡ mà lịch sử để lại. Khi Han Kang viết, bà không chỉ viết cho những linh hồn ở Gwangju, mà còn viết cho tất cả những ký ức tập thể từng bị chôn vùi trên thế giới này. Và đây là điều khiến Bản chất của người vượt ra khỏi biên giới Hàn Quốc. Nó không chỉ là lịch sử của một quốc gia, mà còn là lời cảnh báo về sự mong manh của lương tri con người. Khi quyền lực, nỗi sợ và bạo lực hội tụ, thân thể trở thành thứ đầu tiên bị hy sinh, và nếu không ai lên tiếng, ký ức cũng sẽ bị giết chết theo.
Cuốn sách kết thúc, nhưng tiếng vọng của nó vẫn để lại trong tâm trí. Nó ở lại như một vết bỏng âm ỉ, buộc chúng ta nhìn vào chính bản chất của con người, điều mà Han Kang đã hỏi: “Để con người không trở thành thứ gì khác, thì chúng ta phải làm gì?” Câu hỏi ấy không có một đáp án duy nhất. Nhưng có lẽ, câu trả lời đầu tiên sẽ là: chúng ta phải dám nhìn thẳng vào bóng tối ký ức của mình, phải nhớ, và phải kể lại. Bản chất của người không chỉ là một tiểu thuyết về thảm sát Gwangju, nó còn là lời nhắc của những quá khứ đau buồn. Han Kang không né tránh những chi tiết gây ám ảnh, bà đưa người đọc đi qua mùi, màu, âm thanh của bạo lực, khiến ta phải đối diện với nó mà không thể quay mặt. Đối diện với quá khứ không phải để sống trong đau khổ, mà để ngăn nó tái diễn, bởi khi ký ức bị chôn vùi, bạo lực sẽ tìm đường quay trở lại.
Cảm xúc cuối cùng khi đọc xong Bản chất của người không chỉ là nỗi buồn, mà là cảm giác mang theo trách nhiệm, để rồi trở thành người giữ ký ức. Từ khoảnh khắc ấy, bạn đọc không còn là người đứng bên lề lịch sử, họ trở thành một phần của dòng ký ức chống lại sự quên lãng.
NGUYỄN THANH THẢO
Báo Văn Nghệ 2025
THƯƠNG CÂY LỤC BÌNH
Tạp Ghi và Phiếm Luận : ĐÔNG là HƯ ỚNG ĐÔNG ...