Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

Cô Đầu Diễm Hương

 Hát ả đào, hát cô đầu còn gọi là ca trù do chữ “trù” là mảnh tre, thẻ tre dùng để thưởng cho các ả đào. Sau chầu hát, đào nương lấy thẻ tre đổi thành tiền thưởng. Mỗi nơi ngày nay có lối thưởng mỗi khác hình như là thưởng cho ca sĩ bó hoa, sau đó dùng hoa đổi lấy tiền thưởng.

Còn chữ hát "cô đầu" hắn có đọc tích nhưng quên tên tác giả là có người con hát họ Đào quê ở làng Đào Xá, tỉnh Hưng Yên(đồng hương với hắn), lập mưu giết được giặc Minh. Khi nàng chết, dân nhớ ơn lập đền thờ, gọi thôn nàng ở là thôn Cô Đầu.

Trước năm 1975 nhạc sĩ Hoàng thi Thơ có dựng lại vở kịch này và trình diễn tại Maxim và cũng có lúc đưa lên truyền hình.

 Từ đấy những người đi hát được gọi là cô đầu.

Có 2 loại cô đầu, cô đầu hát (đào nương) là chỉ hát cho khách, nhiều khi khách mới làm xong một bài hát nói, đem đến nhờ cô đầu hát, còn loại thứ hai không biết hát nên được gọi là cô đầu rượu, chỉ phục vụ rượu cho khách đến chơi, họ có lẳng lơ thì cũng là nghiệp cả.

Những cô đầu hát là người thanh lịch, tài sắc vẹn toàn đã dần dần bị đánh đồng với các cô đầu rượu và chịu nhiều điều tiếng...

Một câu chuyện tình của cô đầu được nhà văn Trúc Tiên kể lại dựa trên một câu chuyện có thật bằng hai ngôn ngữ Việt và Pháp (Version vietnamienne en premier, suivie de la version française)

Ara

 Inline image

   Cô Đầu Diễm Hương

(Diễm Hương - La Courtisane et le Mandarin)

Trúc Tiên kể

Dựa trên chuyện thật

D'après une histoire vraie

Version vietnamienne en premier, suivie de la version française

Thăng Long đầu thế kỷ XVIII, đất Kinh kỳ đang ở vào thời giao thoa rực rỡ giữa văn minh Đông phương và sự trỗi dậy của tầng lớp nho sĩ khoa cử. Làng Dịch Vọng nằm phía Tây kinh thành, nổi tiếng không chỉ với truyền thống học hành mà còn là nơi tổ chức các hội làng lớn mỗi mùa xuân về. Đây là vùng đất giao hòa giữa nếp sống nho phong và dòng chảy nghệ thuật truyền thống – nơi ca trù và đào hát được kính trọng như một phần tinh thần cao quý. Mỗi mùa hội làng Dịch Vọng về, khắp ngả đường Kinh thành lại rộn ràng tiếng trống hội, mùi hương trầm và bóng áo tứ thân sẫm nâu lấp ló sau các dãy lều vải. Năm ấy, giữa sân đình phủ đầy nắng chiều, một đào nương xuất hiện. Cô mặc áo dài thiên thanh, mái tóc chải mượt buông nhẹ sau lưng, tay ôm chiếc đàn nguyệt cũ. Giọng hát cô cất lên như luồng gió mát giữa hè oi ả – vừa trầm buồn, vừa tha thiết, ngân dài theo nhịp phách.

Tên cô là Diễm Hương. Có người còn gọi cô là Cô Đào họ Nguyễn. Cô đẹp, nhưng không phải cái đẹp rực rỡ. Cô đẹp theo kiểu của một bức tranh thủy mặc, vừa gần vừa xa, vừa muốn với mà vừa sợ chạm. Là đào hát nổi danh, cô biết giữ khoảng cách. Không bao giờ cười quá lớn, không để ai nhìn quá lâu, không ai có thể chạm tay vào mái tóc cô – trừ tiếng đàn và thơ.

Hôm ấy, khi cô đang ngân một câu trong bản “Tỳ bà hành”, đôi mắt cô bất chợt dừng lại ở một chàng trai đứng nép sau cột đình. Cậu gầy gò, mặc áo nâu sẫm, khuôn mặt ngước lên đầy ngơ ngẩn. Đó là lần đầu tiên họ gặp nhau – ánh nhìn thoáng qua mà khắc sâu đến tận tim.

Vũ Khâm Lân, một thư sinh nghèo gốc làng Nhân Mục, đang theo đòi chữ nghĩa nơi một phường học nghèo bên phía Tây thành. Từ nhỏ, Cậu đã sống trong cảnh cha mất sớm, mẹ bán cau ngoài chợ, nuôi con bằng từng đồng xu lẻ. Mỗi sớm tinh mơ, Lân dậy học bài trong tiếng gà gáy, tối đến lại chong đèn dầu mà luyện chữ. Dù nghèo, nhưng ánh mắt cậu luôn sáng, thứ ánh sáng của người tin vào một ngày được vinh quy bái tổ, rạng danh dòng họ.

Bạn đồng học thường gọi đùa cậu là "Khâm Lân kẻ mộng sĩ", vì cậu hay đọc thơ dưới trăng, mê những áng văn Tống Đường, và đặc biệt là có thói quen chép tay các bài phú về danh kỹ, giai nhân trong sử cũ. Chính một lần theo bạn đến nghe ca trù ở phường hát Vạn Xuân, Lân lần đầu được nghe giọng hát của Diễm Hương. Từ đó, cái tên ấy bám lấy trí tưởng của cậu như một lời nguyền dịu dàng. Bạn bè cười, Lân chỉ mỉm : "Nếu có cô nâng chén trà cho ta giữa một đêm thi hỏng, e rằng lòng này cũng đủ dậy gió." Cậu từng nghe danh Diễm Hương, nhưng không ngờ rằng thực tại còn khiến tim run hơn gấp bội lời đồn. Sau buổi diễn, cậu không dám nán lại. Nhưng đêm đó, cô tìm đến nơi trọ của cậu. Không lời hẹn trước. Không lời giải thích. Chỉ có nụ cười nghiêng và một túi vải nhỏ, trong đó là mười quan tiền.

– Cô... – Khâm Lân lắp bắp, chưa kịp đứng hẳn dậy – Sao cô lại đến...?

Diễm Hương mỉm cười, đặt nhẹ túi vải lên bàn tre ọp ẹp.

– Thiếp đến vì thấy ánh mắt chàng hôm ấy. Một ánh mắt không giống kẻ chỉ đi nghe hát để vui tai. Chàng nhìn thiếp như thể muốn hỏi điều gì, mà lại không dám.

– Tôi... tôi chỉ là một học trò nghèo, đâu dám vọng tưởng...

– Không ai đánh thuế ước mơ. Chàng thiếu gì thiếp không biết. Nhưng thiếp thấy ở chàng một cái chí không mài được. Và người như thế, nếu ngã quỵ vì vài bữa cháo rau thì tiếc lắm.

– Cô... cho tôi tiền ?

– Không. – cô khẽ lắc đầu – Thiếp cho chàng cơ hội. Cứ coi như thiếp đánh cược : một ngày nào đó, nếu tên chàng đỗ bảng vàng, thiếp sẽ là người đầu tiên nâng chén chúc mừng, nhưng không phải trước đám đông, mà là ở một góc nhỏ chỉ có hai người.

Lân nghẹn lời. Trong ánh đèn dầu chập chờn, gương mặt cô hiện lên rõ hơn : không kiêu kỳ, không gợi tình, chỉ đơn thuần là một Diễm Hương chân tình.

– Thiếp đi đây. Đừng tiễn, cũng đừng nói cảm ơn. Nếu một ngày chàng thành công, hãy viết cho thiếp một bài thơ. Còn nếu thất bại... – cô nghiêng đầu suy nghĩ – ...thì hãy nhớ có một người đã tin chàng hơn chính chàng tin mình. Thiếp tin, chàng sẽ đỗ. Chàng chỉ thiếu chút lửa. Thiếp không cho chàng tiền, thiếp chỉ giúp chàng cơ hội.

Cứ thế, họ yêu nhau. Một tình yêu không phô trương. Những buổi tối, cô gửi đến một bầu rượu nếp, một bình trà hoa sói, hay một bài thơ chép tay. Cậu gửi lại một chiếc lá khô, vài câu chữ vụng. Có lần, trong cơn say nhẹ, Khâm Lân thử chạm tay vào mái tóc cô. Cô tránh đi, ánh mắt dịu dàng nhưng kiên quyết :

– Thiếp là đào hát, nhưng không phải là người bán mình. Nếu chàng thật lòng, hãy để mọi thứ chờ ngày vinh quy.

Từ đó, họ ít gặp nhau hơn để tránh sự cám dỗ. Cô vẫn gửi tiền, gửi thơ, không gửi mặt. Cậu lao vào đèn sách, thi cử, và cuối cùng — đỗ tiến sĩ khoa thi năm Bảo Thái thứ 8, năm 1727.

Khâm Lân được bổ nhiệm làm quan tri huyện ở một vùng lân cận Kinh kỳ. Dù chưa phải là chức lớn, nhưng với một người xuất thân hàn vi, đó là khởi đầu đáng tự hào. Vốn bản tính điềm đạm, cậu không bon chen trong triều, chỉ chăm lo việc giáo hóa dân làng, xét xử công bằng, nên được lòng bách tính. Những tháng đầu làm quan, Lân vẫn giữ nếp sống giản dị, hay đọc thơ vào những đêm không trăng, và nhiều lần tự hỏi : cô ấy giờ đang ở đâu, và có còn chờ không ?

Trong một lần được mời dự yến tiệc ở phủ thượng thư, Khâm Lân tình cờ gặp tiểu thư Ngọc Thoa – con gái út của vị quan lớn trong triều. Cô thông minh, đoan trang, lại có đôi mắt buồn như gợi lại một ký ức xa xôi nào đó hao hao giống Diễm Hương. Ngọc Thoa yêu thích văn chương, thường làm thơ, họa vịnh, và nhanh chóng bị cuốn hút bởi vẻ trầm tĩnh, sâu sắc của vị tân tiến sĩ. Họ trò chuyện nhiều với nhau, từ thơ phú cho đến kinh thư, rồi dần trở nên thân thiết. Những lời mời ăn, những buổi đàm đạo, rồi ánh mắt tự tin của một gia đình quyền quý khiến lòng Khâm Lân bắt đầu lung lay.

Trong một xã hội còn nặng lễ giáo, gả vào nhà quan lớn là con đường sáng lạn cho một kẻ từng sống trong bóng tối. Cậu ngập ngừng giữa tình và lý, giữa ký ức và hiện tại. Nhiều đêm, Lân cầm bút viết rồi lại xé đi, định tìm về gặp Diễm Hương nhưng lại dừng bước. Trong lòng cậu luôn có một nỗi sợ âm thầm – sợ rằng khi người ta đã là quan, thì việc dây dưa với một cô đầu sẽ bị đàm tiếu. Dù biết rõ Diễm Hương là người trong sạch, sống với nghệ thuật bằng sự tự trọng hiếm có, nhưng xã hội lại không dễ nhìn cô bằng đôi mắt ấy. Kẻ sĩ đỗ đạt mà lui tới đào hát, dẫu thanh cao đến đâu, cũng sẽ bị gán cho chữ “say mê sắc đẹp”. Lân không sợ mang tiếng cho mình, chỉ sợ cô thêm đau lòng. Và thế là, cậu chọn im lặng, một sự im lặng càng về sau càng thành phản bội.

Vài tháng sau, hôn lễ giữa Khâm Lân và tiểu thư Ngọc Thoa được tổ chức trong một phủ lớn giữa lòng Kinh thành. Đó là một lễ cưới trang trọng, có đủ văn quan võ tướng, chiêng trống, lễ nghi. Khâm Lân mặc áo đại triều, bước lên kiệu hoa, giữa hai hàng người chúc tụng. Nhưng không ai biết, trong lòng cậu là một khoảng trống không tên – niềm hân hoan của kẻ vừa thăng tiến lại pha lẫn âm vang của một tiếng hát nào đó đã từng giúp cậu giữa đêm tối.

Cậu không dám nhắc đến tên Diễm Hương. Không ai nhắc đến cô cả. Cô là quá khứ. Mà quá khứ, đôi khi chỉ cần một lần quay đầu nhìn lại cũng đủ để phá hỏng cả tương lai. Lân bước vào hôn nhân như một nghĩa vụ. Cậu tự nhủ : đây là điều phải làm. Nhưng trong góc sâu nhất của trái tim, Khâm Lân biết và nhận ra mình là kẻ phản bội.

Một ngày nọ, trong một yến tiệc lớn do triều đình tổ chức nhân dịp lễ đăng khoa, giữa dòng người ồn ã, chiêng trống vang vang, Cậu bất ngờ nghe lại một âm sắc quen thuộc : tiếng hát ca trù ngân lên giữa hội trường. Diễm Hương được mời đến biểu diễn – lần này, không còn là người con gái nâng chén trà nơi hội làng, mà là một cô đầu đứng dưới ánh đèn lớn, giữa sự tò mò và những lời xì xào nhỏ to.

Hai ánh mắt gặp lại nhau giữa bao ánh nhìn khác. Không còn ngỡ ngàng, không còn rụt rè. Chỉ là hai cái nhìn dài và lạnh, như hai người từng biết rất rõ nhau, nay gặp lại với trái tim đã khép.

Cô vẫn hát, vẫn dịu dàng và thanh khiết như xưa. Nhưng Lân biết, trong mỗi câu hát ấy, có điều gì rút lại, không còn ngân cho cậu nữa. Còn cậu, chỉ biết ngồi lặng, trong bộ áo quan triều, nhìn một người đàn bà đã từng thuộc về một đoạn đời mình, nay đứng đó, gần như xa.

Buổi tiệc trôi qua, họ không nói với nhau một lời. Nhưng cái nhìn ấy – dài, lặng và đau – theo Lân về suốt một đời.

Hai mươi năm sau, khi thời thế đã đổi thay, Diễm Hương giờ đã cơ hàn, không còn hơi sức hát ca cũng chẳng còn ai mời. Mái tóc cô bạc dần theo những mùa mưa trôi qua trước hiên nhà nhỏ ven hồ. Mẹ cô già yếu, bệnh triền miên. Cô bấu víu vào từng sợi chỉ cuối cùng của kiêu hãnh để không gục ngã. Chính vào lúc ấy, Khâm Lân tìm đến.

Cậu đã là một viên quan đứng tuổi, có quyền, có vị. Nhưng khi đứng trước căn nhà lợp ngói vỡ, nơi cô đang sống, cậu bỗng thấy mình nhỏ bé lạ lùng. Họ gặp lại nhau như hai người xa lạ. Giữa họ là một hố sâu ngăn cách. Khâm Lân âm thầm mời thầy thuốc đến thăm bệnh cho mẹ cô. Những gói thuốc được gửi đến như món quà hảo tâm của một người hàng xóm. Nhưng cô biết, đó là của Khâm Lân. Cô không tỏ thái độ, cũng không cự tuyệt.

Đến một ngày, mẹ cô mất. Hôm đưa tang, Khâm Lân lặng lẽ đi sau, không mang lễ phục quan, chỉ mặc áo lam giản dị. Sau đó vài ngày, khi cậu quay lại, cánh cửa nhà đã khóa. Hàng xóm bảo cô đi đâu không ai biết.

Không ai biết cô đi đâu. Có người bảo cô vào chùa. Có người bảo cô lên núi. Nhưng trong một tập thơ cũ, người ta tìm thấy vài câu viết bằng mực nâu đã phai :

Ta đã yêu, một lần thôi cũng đủ 
Dù người quên, ta vẫn nhớ trọn đời 
Một khúc đàn, ngân hết tuổi xuân rơi 
Giữ cho sạch điều mà người đã mất.

Và như thế, cô biến mất, như một tiếng hát cuối cùng còn vương lại trong lòng người từng biết lắng nghe – dù chỉ một lần.

..............

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CẢM KHÁI ĐÊM GIÁNG SINH -Thơ Mailoc và Thơ Họa

CẢM KHÁI ĐÊM GIÁNG SINH (Ngũ Độ Thanh) Càng khuya lạnh lẽo cánh sao trời Máng cỏ bên tường rực rỡ ơi ! Rộn rã hồi chuông hồn cảm khái Sầu bi...