Tạp Văn của Vương Tiểu Ba (TQ) - Lê Thanh Dũng dịch
Về tác giả: Vương Tiểu Ba sinh ngày
13/5/1952, trong một gia đình trí thức. Năm 1968, trong Đại cách mạng văn hóa vô sản, ông
phải về lao động ở vùng nông thôn tỉnh Vân Nam. Năm 1971 ông được
chuyển đến tỉnh Sơn Đông vàtrở thành giáo viên.
Năm 1972 về Bắc
Kinh, Vương Tiểu Ba được làm việc ở một
nhà máy nhỏ. Những giai đoạn này về sau đều được phản ánh trong các tác phẩm của ông
Sau Cách mạng văn hóa, từ năm
1978, Vương Tiểu Ba giảng dạy tại ĐH
Nhân dân Trung Hoa. Năm 1988, ông
nhận bằng Thạc sĩ tại ĐH Pittsburgh, Mỹ vàquay về giảng dạy tại ĐH Bắc Kinh, ĐH Nhân dân Trung Hoa. Năm 1992, ông nghỉ việc để có thể tự do
theo đuổi việc viết văn. Năm
1997, ông qua đời đột
ngột sau một cơn đau tim tại nhà riêng.
Sau khi ông mất,
tác phẩm của ông càng trở nên nổi tiếng hơn, thực sự tạo nên một cơn sốt khắp Trung Quốc, ảnh hưởng rất nhiều đến những người viết văn trẻ.
Một số tạp văn và tiểu thuyết của ông đã được dịch sang tiếng Việt và được đón
nhận nồng nhiệt. Cuộc tọađàm về tác
phẩm “Thời Hoàng Kim” đã được Cty Phương Nam tổ chức tại TP HCM với sự tham gia của hơn bốn mươi nhà văn.
Lê Thanh Dũng
Hơn hai mươi năm trước, tôi đi lao động ở Vân Nam. Khí hậu ở đây
nóng nực, các loài cây trái vùng nhiệt đới không thiếu thứ gì; chỉ dừa là không
thấy có. Theo ghi chép của dã sử, chuyện này có căn nguyên của nó. Nghe nói
trước Tam quốc, Vân Nam trồng đầy dừa, dân tộc ít người sống yên vui dưới tán
lá rừng dừa. Ai cũng biết, mọi bộ phận của cây dừa đều dùng được, cùi dừa ăn
thay cơm, nước dừa để uống, dầu dừa làm thức ăn, thân dừa cho gỗ, tơ lá dừa làm
sợi dệt quần áo thô. Cây dừa thỏa mãn hầu hết nhu cầu hàng ngày, dân ở đây cũng
không cần làm nông, sống rất an nhàn.
Đùng một cái Gia cát Lượng kéo quân đến. Ông ta muốn giáo hóa
dân chúng ở đây. Ông ta bắt họ phải sống theo cách sống của chúng ta: Làm những
việc ta làm, mặc quần áo như ta mặc, phục tùng chế độ của ta. Việc này lúc đầu
không thành công lắm. dân chúng chẳng thấy cách sống của ta hay ho ở chỗ nào.
Trước tiên, xuân trồng thu hái, mệt chết người, ít nhất là vất vả hơn hái dừa
nhiều lắm; thứ nữa là quần áo người Hán không hợp vùng đất này. Lấy ngay ông
Gia Cát làm thí dụ, quần là áo lụa tốt thật đấy, nhưng mặc vào chỉ để ủ mồ hôi
và ủ chấy rận; cái mũ quan chẳng che được nắng cũng chẳng che được mưa, chỉ
khiến ong khoái chui vào làm tổ. Ở vùng này nóng nực, kiếm vài cái lá dừa che
cái chỗ cần che là xong. Còn về chế độ của người Hán thì quá ư rắc rối. Ông Gia
Cát múa môi uốn lưỡi trẹo cả quai hàm, tất nhiên lôi cả Khổng Mạnh ra để viện
dẫn nhưng chẳng ma nào nghe. Ông không nghĩ rằng lí lẽ mình sai mà đổ hết tội
vạ cho cây dừa: Thế là ông ra lệnh trong một đêm chặt bằng sạch dừa Vân Nam, để
cho cái lũ dân man di này nghe thủng được đạo lí của thánh hiền. Không còn dừa
nữa, lời ông ta nói có người nghe.
Cách giải thích của tôi là thế này, ông Gia Cát không phải một
mình đi nam chinh, ông còn đem theo đầy đàn lính tráng, cây dao chặt dừa cũng
có thể chặt người được, chuyện chặt dừa cho thấy rằng ông ta có đủ người để sai
bảo, cũng đủ dao rìu để chặt chém. Dân chúng hiểu cái lẽ đó thế là họ sợ ông
Gia Cát. Tôi nói vậy, bạn cứ việc không tán thành – Tôi biết bạn sẽ nói, Gia
Cát Lượng là người hiền, ông ta không trắng trợn dùng vũ lực để đe dọa người
ta; cho nên tôi cũng chẳng cố chấp làm gì.
Về việc này, dã sử giải thích thế này: Bọn man di có những vật
lạ, cho nên vênh váo dám cả gan coi thường cả Thiên triều; khi không còn vật lạ
nữa là chúng nó trở nên dễ bảo ngay. Có nghĩa là, dân Vân Nam thời đó phạm cái
tội ngạo ngược, thiếu đạo đức. Ông Gia Cát chặt cây dừa là để sửa cho họ cái
tính ấy, là làm điều tốt cho họ. Tôi thì cho rằng cách nghĩ như vậy thật là
kinh tởm. Người ta có mấy thứ hay, sống đang dễ chịu, tinh thần cũng thoải mái,
thế gọi là ngạo ngược; cứ phải phá bỏ cái hay của người ta đi khiến người ta
phải đau đớn, thế thì không phải là ngạo ngược? – Tôi nghĩ đây là ý kiến của
người viết dã sử, ông Gia Cát không phải là người như vậy.
Đọc dã sử đừng nên coi là thật, nhưng thực tế, Vân Nam nay chẳng
còn dừa, trước kia thì có. Cho nên có thể là ông Gia Cát Lượng đã chặt. Nếu làm
thế không phải là dã man thì cần phải có cách giải thích có đạo lí hơn. Tôi
nghĩ khi chặt dừa, ông ta có thể nghĩ thế này: Người ta sinh ra đã bình đẳng,
nhưng nay thì không bình đẳng nữa. Tứ Xuyên dừa không mọc được, dân phải trồng
lúa vất vả; Vân Nam có dừa, dân sống rất dễ chịu. Hãy để cho dừa mọc đầy Tứ
xuyên, đó là một cách đạt đến công bằng, nhưng do điều kiện tự nhiên, khó mà
làm được. Vì thế phải chặt sạch dừa Vân Nam, thế mới công bằng. Nếu không công
bằng, có hai cách có thể san cho bằng: Nâng cao lên là tốt nhất, nhưng khó thực
hiện. Ví như có những người có đủ chân tay, nhưng có người sinh ra đã bị khuyết
tật, một đạo lí làm cho công bằng là cho người khuyết tật thành người bình
thường. Chẳng dễ chút nào. Có một cách làm công bằng là kéo xuống, biến những
người bình thường thành người khuyết tật thì dễ hơn nhiều, chỉ cần cho một gậy,
một tiếng kêu thảm thiết, thế là xong. Ông Gia Cát làm theo cách kéo xuống, khổ
cho tôi không được ăn dừa. Hồi ở Vân Nam khi thấy nhạt miệng, tôi gặm quả đu
đủ, nhạt nhẽo vô vị, nhưng tôi không trách cây đu đủ. Cây này cũng không mọc ở
các tỉnh phía trong, nếu quả nó quá ngon thì ông Gia Cát cũng chặt sạch rồi.
Đề tài bài viết này của tôi là cây dừa, nhưng thực ra là nói vấn
đề bình đẳng, treo đầu dê bán thịt chó là thế. Đó là dụng ý của tôi. Theo lẽ
phải ai sinh ra cũng bình đẳng, điểm này ai cũng đồng ý. Nhưng thực ra là không
bình đẳng, mà cái bất bình đẳng lớn nhất là có người có cây dừa, có người không
có. Ông La Tố đã nói, cái bất bình đẳng lớn nhất là sự chênh lệch về tri thức –
có người thông minh; có người dốt. Vấn đề là ở chỗ đó. Ở đây nói tri thức là
hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là tri thức khoa học mà còn bao gồm cả tố chất
văn hóa, sự thưởng thức nghệ thuật vân vân. Loại cây dừa đó mọc trong não
người, nó không chỉ đem lại cho người ta lợi ích vật chất mà còn cả hạnh phúc
về tinh thần. Cái chênh lệch của vế sau này tôi gọi là sự chênh lệch về năng
lực hạnh phúc. Có những tác phẩm người này thưởng thức được nhưng người kia
không hiểu, có nghĩa là có người có năng lực hạnh phúc nổi trội hơn. Cái năng
lực nổi trội này là thứ dễ gây tâm lí đố kị nhất. Cách loại trừ sự nổi trội này
là nhè vào đầu người thông minh gõ một gậy, cho ngu đi một chút. Nhưng gõ nhẹ
không ăn thua, gõ mạnh thì phòi óc ra, mà đó không phải là chủ ý của chúng ta.
Một cách khác là: Mỗi khi có sự tranh chấp giữa người thông minh và người ngu,
chúng ta cứ bênh người ngu, bảo người ngu có lý. Lâu dần, người thông minh cũng
thành ngu. Cách này hiện đang được sử dụng.
VTB
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét