CHỮ “VẠN”TRONG ĐẠO PHẬT
Chữ VẠN của
Phật, màu vàng, thẳng đứng, quay ngược (A) hay quay thuận (B) kim đồng hồ:
Svastika hay Evolution (tốt đẹp).
A
Còn Chữ VẠN
của Hitler, màu đen, chính giữa xéo: Sauvastika hay Destruction (ý nghĩa xấu
xa)
Chữ VẠN của Hitler
Chữ VẠN
là một biểu tuợng chứ không phải là chữ viết.
Bốn cánh
của chữ VẠN tạo thành như 4 cái bóng của 4 cái đầu của hình chữ Thập +
khi quay tròn. Do đó chữ VẠN nếu có chiều quay ngược chiều kim đồng
hồ (gọi là A) thì là chiều quay tự nhiên của các quả địa cầu quanh mặt trời và
cũng là chiều tự quay của nó. Nếu nó quay thuận theo chiều kim đồng hồ (gọi là
B), tức là theo chiều tương sanh trong Ngũ hành. Có nhiều tranh cãi về chiều
quay của chữ VẠN trong Phật giáo. Cáo nào đúng?Cái nào sai?
1- Theo
Hán Việt của Thiều Chửu, trang 68:
Chữ nầy
trong kinh truyện không có, chỉ trong nhà Phật mới có thôi. Nhà Phật nói rằng:
Khi Phật giáng sinh, trước ngực có hiện ra hình chữ VẠN, người sau mới biết.
Chữ VẠN quay theo chiều ngược với chiều quay của kim đồng hồ.
Trong bộ
Hoa Nghiêm Âm Nghĩa nói rằng: Chữ VẠN nguyên không có, đến niên hiệu Tràng Thọ
thứ hai đời nhà Chu mới chế ra âm là VẠN, có
nghĩa là muôn đức tốt lành đều hợp cả ở đấy. Lại nữa, nguyên chữ VẠN quay ngược
nầy theo nguồn tiếng Phạn tên là Srivatsalaksana.
Các Ngài La Thập, Huyền Trang dịch là ĐỨC, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch là VẠN.
Ở bên Ấn Độ,
thì tương truyền là cái tướng cát tường thì dịch là ĐỨC để nói về công đức, còn
dịch VẠN là nói về công đức đầy đủ.
Song, chữ
VẠN (A) nguyên là hình tướng chớ không phải là chữ, cho nên dịch là cát
tường hải vân tướng, mà theo cái hình xoay về bên hữu (A) là phải hơn.
Vì xem như nhiễu Phật thì nhiễu về bên hữu, hào quang của Phật ở khoãng long mày
phóng ra cũng xoay về bên hữu, thì viết xoay về bên hữu như (A) mới đúng là tướng
cát tường, có chỗ để xoay về bên tả (B) là lầm.
Vậy theo Thiều
Chửu như trên đây thì chữ VẠN quay theo chiều ngược kim đồng hồ là ĐÚNG.
2- Phật Học Từ Điển
của Đoàn Trung Còn: (nơi trang 600, Q3)
Chữ VẠN (Svastika) thì chữ quay thuận theo chiều
kim đồng hồ (B) cũng gọi là Kiết Tường. Ấy là chữ linh bên Ấn Độ, chữ ấy có sức
đưa lại, nêu ra các điểm tốt lành, vui vẻ, phước đức. Vì vậy nên gọi là Kiết tường,
Vạn tự, Đức tự. Sức lành của chữ VẠN theo mẫu (B) sâu rộng như biển, cao lớn như
mây.
Chư Phật Thế Tôn đều có hình chữ VẠN nổi
nơi ngực. Ấy là tướng quí của các Ngài, và tóc của các Ngài cũng có hình chữ VẠN
nữa. Chữ VẠN tiêu biểu cho các điều may mắn, phước đức, tốt lành, cho nên ở trước
các ngôi chùa Phật, người ta thường thấy vẽ hình chữ VẠN ấy.
Chữ VẠN nơi ngực Đức Phật
Theo Đoàn
Trung Còn, hình chữ VẠN (A) là sai, (B) là đúng.
Điều nầy trái
ngược với Thiều Chửu (phần1 trên). Nhưng cả hai đều không giải thích được lý do
tại sao chữ VẠN quay chiều nầy thì cát tường, theo chiều kia ngược lại thì nguy
hại. Cả hai vị đều không đưa ra được cái lý do xác đáng và có sức thuyết phục để
người ta không thể bài bác được.
Còn Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam
thì sao?
3- Từ Điển Phật Học
của Giáo Hội PGVN:
Theo Phân Viện
Nghiên Cứu Phật Học, Chủ biên Kim Cương Tử, Q2-trang 1822:
VẠN TỰ: Svastina hoặc Srivatsalaksana là thuật ngữ.
Theo đó, chữ
VẠN theo chiều nghịch (A) là tướng biểu thị sự tốt lành lưu truyền ở Ấn Độ, Phật
Giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo đều có sử dụng. Sớm nhất là trên tượng Phật Phạm
Thiên, Visnu, Krisna. Âm tiếng Phạn chữ VẠN là Thất-lị-mạt-sa-lạc-sát-nẵng
(Srivatsalaksana). Tức là tướng hải vân cát tường.
Các tôn sư
Cu-ma-la-thập, Huyền Trang dịch là ĐỨC.
Bồ Đề Lưu
Chi đời nhà Ngụy trong Thập Địa Kinh Luận, quyển12, dịch tiếng nầy là VẠN (Vạn
tự), trong đó Thất-lị-mạt-sa tức là chữ VẠN (A) dịch là VẠN với ý nghĩa là công
đức viên mãn, nên có nghĩa là hải vân cát tường; còn dịch là không có lầm lỗi.
Chỉ có lạt-sát-nẵng dịch
là Tự (chữ). Đây là sự lầm lẫn với từ ác-sát-na.
Tiếng Phạn lạc-sát-nẵng tức là tướng ác-sát-na là Tự. Nay chữ VẠN (A) là tướng
chớ không phải là tự nên có thể dịch là cát
tường hải vân, tức là vạn tướng.
Thế nhưng hình
dáng nầy vòng bên phải là VẠN (A) tương tự như kính lễ Đức Phật, hoặc vòng về bên
phải ba vòng, tương tự như sợi long trắng ở giữa hai lông mày của Đức Phật chuyển
vòng bên phải. Tóm lại, chuyển vòng về bên phải (như A) là tốt lành (cát tường).
Xưa nay, có khi thấy viết chữ VẠN (B) là nhầm. Cao Ly Bản Tạng Kinh và Tuệ Lâm Âm
Nghĩa (Q.21), Hoa Nghiêm Nghĩa đều viết chữ VẠN theo VẠN (A), ngược chiều kim đồng
hồ.
Lại nữa,
theo thuyết của Kinh Đại Thừa thì điều đó biểu thị tướng cát tường trên ngực của
Đức Phật và Thập Địa Bồ Tát. Chữ VẠN là một trong ba mươi hai tướng tốt của
Phật và nó nằm ngay trước ngực của Ngài. Tuy nhiên, một số kinh điển khác thì
lại nói đây là tướng tốt thứ 80 của Đức Phật Thích Ca. Dầu là tướng tốt thứ mấy
đi chăng nữa thì không ai có thể chối cải chữ Vạn chỉ là một ký hiệu chớ không
phải là văn tự dùng để thể hiện cho người có công đức vẹn toàn. Có những lúc
chúng ta thấy chữ VẠN xoay qua phía mặt và cũng có khi xoay qua phía trái. Từ
đó có những lý luận cho rằng chữ vạn của Phật giáo phải xoay hướng nầy thì đúng
còn hướng kia thì sai. Đó là một kết luận đầy tính chủ quan phiến diện.
Như vậy,
theo Kim Cương Tử và các Hòa Thượng soạn giả thì hình chữ VẠN (A) nghĩa là quay
ngược kim đồng hồ là đúng, còn thuận kim đồng hồ (B) lại là sai.
3- Theo Từ Điển Phật
Học của Thích Minh Châu - Minh Chi, trang 757: Theo Thượng Tọa Thích
Minh Châu, nguyên là Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn thì:
“VẠN: Một trong 32 tướng đẹp của Phật, vị trí trên ngực của
Phật. Nó biểu thị công đức vô lượng cửa Phật, lòng từ bi và trí tuệ vô lượng của
Phật.
Là phù hiệu,
không phải là chữ viết.
Viết xoay
bên trái, hay bên phải, đều được, tuy rằng có một số nhà Phật học tranh luận
nhau về hướng xoay của phù hiệu nầy.
Nhà độc tài
Phát xít Hitler cũng dùng phù hiệu nầy cho Đảng áo nâu của mình, nhưng đặt nghiêng”.
(Tiến Sĩ /TT.Thích Minh Châu)
Theo như trên
đây, Thượng Tọa Thích Minh Châu và nhà Phật học Minh Chi thì chữ VẠN (A) hay
(B) đều được cả vì cả hai nhóm bênh vực cho chữ VẠN quay thuận chiều kim đồng hồ
và ngược chiều kim đồng hồ đều không bên nào đạt được lý lẽ thuyết phục.
Một ý kiến
khác của Viện Nghiên Cứu Phật Học có
viết:
“Trước đệ
nhị thế chiến có Adolf Hitler sanh ngày 20-04-1889 tại Áo quốc gần biên giới
nước Đức. Vì nuôi tham vọng thống trị cả thế giới qua chiêu bài Phát xít Đức,
Ý, Nhật nên đã chọn chữ VẠN như là biểu tượng của đảng Đức Quốc xã. Chính
chữ VẠN này đã được bác sĩ Fridrich Krohn phát họa. Nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ
thì chữ vạn của Hitler thì màu trắng nằm nghiêng trong một vòng tròn màu đen.
Bởi thế chữ vạn của Hitler là tượng trưng cho sự tăm tối và chết chóc. Vì thế
cứ mỗi khi nghe đến tên Hitler thì cũng như màn đêm sắp xuống, bóng ma chặp
chờn, không khá nỗi.
Do đó chữ VẠN
của Hitler không thể nào có thể đem so sánh với chữ VẠN của Phật giáo cho được.
Một bên là trời cao xanh mướt còn một bên thì thăm thẳm mù đen. Một bên thì
thanh cao thánh thiện còn bên kia thì tội lỗi đau thương. Cũng vì sự tối tăm đó
nên giấc mộng Đồ vương của Hitler biến thành mây khói và đưa đến cái chết cho
hàng triệu người vô tội và dĩ nhiên cũng kết liễu cuộc đời của một tên bạo
chúa.
Đây là chữ VẠN của Đức Quốc Xã (chính giữa xéo góc X). Đó là hai chữ S viết tắt (
Vào thời nhà
Đường, Hoàng hậu Vỏ Tắc Thiên cũng dùng chữ VẠN. Nhưng đây chỉ là biểu tượng
cho mặt trời mà thôi. Tóm lại, cho dù chữ VẠN xoay bên trái hay bên phải thì
chữ VẠN trong Phật giáo vẫn luôn luôn tượng trưng cho lòng từ bi và trí tuệ vô
lượng của Đức Phật. Sự xoay vần có nghĩa là Phật lực phát tỏa khắp bốn phương.
Và ánh sáng từ bi của Ngài tỏa ra vô cùng vô tận để cứu giúp chúng sinh còn
đang lặn hụp trong bến bờ mê muội.
Và đây là chữ VẠN của
Phật Giáo (chính giữa thẳng đứng +).
Theo: Tài liệu trích
trong “Lịch Sử Phật Giáo.com”.
4- Nghiên cứu của
tiến sĩ Quang Đảo Đốc ở đại học Quốc Sĩ Quán Nhật Bản:
Chữ VẠN vốn
không phải lả là chữ viết (word), mà chỉ là ký hiệu (symbol), và nó đã có từ
thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, và đến thế kỷ thứ ba trước công nguyên mới được
dùng trong kinh Phật.
Ngài Bồ Đề
Liêu Chi dịch là “Vạn”, còn ngài Huyền Trang dịch là “Đức”. Tất cả đếu có nghĩa
là “phước đức viên mãn, trí tuệ và lòng từ bi vô hạn”
Theo Huệ Lâm
Âm Nghĩa quyển 21 và kinh Hoa Nghiêm thì có 17 chỗ nói chữ Vạn viết xoay về
phải. Trong các đồ cồ, các bệ Phật cổ, các tượng Phật cổ của Trung quốc, của Ấn
Độ, Tây Tạng, Nhật Bản, … cũng đều dùng lối viết A, tức xoay về phải.
Ngôi tháp cổ
ở vườn Lộc Dã được xây để kỉ niệm Đức Phật nhập
diệt cũng khắc chữ Vạn xoay về phải.
Ba bản Tạng
kinh đời Tống, Nguyên, Minh, và Cao Ly Đại Tạng Kinh cũng đều dùng chữ Vạn xoay
về phải.
Nhưng tín đồ Lạt Ma giáo, Ấn Độ giáo,
và Bổng giáo thì dùng lối viết B , xoay về trái. Có những chùa tại
Ấn Độ, và Trung Quốc hiện nay, trước hai cánh cửa chính, một bên thì vẽ
kiểu A, một bên lại vẽ kiểu B! Và những hoa văn quanh bệ thờ, cũng xen kẽ lối
viết A và B!
Cách viết nào đúng?
Như đã nói “Vạn” không phải là một chữ mà là một ký hiệu
xuất hiện rất sớm, có thể là từ thời nguyên sơ từ khi con người mới tìm ra lửa.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nó ở khắp mọi vùng trên trái đất, nhưng kí hiệu nầy
đã không thống nhất (chỗ viết theo lối A, chỗ viết theo lối B).
Từ khi Đức Phật ra đời, trên ngực đã có chữ “vạn”, biểu
tượng tướng mạo phi phàm, có ý nghĩa là đại cát tường, phúc lộc viên mãn,… Thế
nhưng từ đó về sau, chữ VẠN trong đạo Phật cũng không thống nhất. Nhưng ta hãy
suy những điều sau đây, có thể hiểu được cách viết nào đúng:
- Xoay qua phải, là theo chiều hào quang của Phật phóng ra.
- Ký hiệu âm dương của vũ trụ thu nhỏ lại (xem biểu tượng
“thái cực” của Lão giáo). “Chữ S” phân chia vòng thái cực xoay về phải.
-Sợi lông trắng (bạch hào) giữa hai lông mảy của Phật uyển
chuyển xoay sang phải.
-Trong các kinh điển cổ, phần lớn đều viết chữ VẠN xoay về
bên phải.
-Trong các nghi thức sám, nhiễu Phật, nhiễu Pháp đều hướng
về phải nhiễu hành.
(Tiến sĩ Quang Đảo Đốc - Nhật Bản)
5- KẾT LUẬN:
“Hình chữ VẠN
quay theo chiều ngược kim đồng hồ (mẫu A) hay quay cùng chiều kim đồng hồ (mẫu
B) thì đó cũng chỉ là hai cái nhìn khi đứng ở hai vị trí trước mặt hay sau lưng
của cùng một chữ VẠN mà thôi.
Trên nóc
chuông của Báo Ân Từ trong nội ô Tòa Thánh Tây Ninh có gắn hình chữ VẠN. Nếu chúng
ta đứng phía trước Báo Ân Từ tại cột phướn nhìn lên, chúng ta sẽ thầy chữ VẠN
theo mẫu (A), tức là quay ngược kim đồng hồ. Còn nếu chúng ta bước sang hông của
Đền Thờ Báo Ân Từ nhìn lên, tức là nhìn phía sau của chữ VẠN thì sẽ thấy theo hình
chữ VẠN (mẫu B), nghĩa là quay thuận theo chiều quay của kim đồng hồ.
Chữ VẠN tượng
trưng cho chơn lý, và chơnlý nầy chỉ có một. Nhưng tùy theo vị trí, góc độ đứng
nhìn mà thấy chơn lý theo kiểu nầy, mang hình thức nầy; còn nếu ở vị trí đứng
khác thì sẽ thấy chơn lý theo kiểu khác với hình thức khác. Nhưng chơn lý vẫn
chỉ là một. Khi chúng ta hợp lại tất cả nhận thức, hợp lại tất cả kiểu dáng của
tất cả sự mô tả chơn lý thì may ra chúng ta mới có thể hiểu được chơn lý một cách
toàn vẹn đủ các mặt.
Cho nên, chúng
ta không nên lấy quan điểm riêng của mình, ở vị trí của mình với cái nhìn của mình
mà phê bình chê bai những nhận thức khác là sai. Thật là không nên.
Chữ VẠN tượng
trưng cho điều lành điều tốt đẹp, vì nó hiện ra trên ngực của Đức Phật. Nó là một
trong 32 tướng tốt của Phật. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng, nếu chữ VẠN quay
theo chiều nào đó thì nó thiêu hũy công đức. Công đức của ta, chỉ có những việc
làm sai trái của ta mới tiêu hũy được công đức của ta. Cái lữa giận của ta chẳng
hạn. Ngoài ra, không có điều gì khác có thể thiêu hũy được công đức của ta.
Chúng ta là
những tín đồ Cao Đài đang ở trong trường thi công quả do Đức Chí Tôn tạo lập.
Chúng ta cứ để mặc cho chữ VẠN quay tự do theo chiều quay của nó mà không cần bàn
cãi. Chúng ta cố gắng lo làm tròn nghĩa vụ của mình, lập công bồi đức càng nhiều
càng tốt, vì cái đức nầy mới đem chúng ta lên những ngôi vị cao trọng nơi cõi
Thiêng liêng”. - HT.Nguyễn văn Hồng (Cao
Đài Tự Điển-Q3-trang 1463).
______Hồ Nguyễn sưu tầm từ:
-
Cao Đài Tự Điển
(HT.Nguyễn văn Hồng Q3)
-
Học viện Phật giáo.news.
-
Viện Phật Học của
PGVN.
-
BuddhaNet.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét