- "Tôi cần
chi tới đèn, anh ơi. Đối với tôi, ánh sáng cũng như bóng tối mà thôi",
người mù buồn bã trả lời.
- "Tôi biết
lắm. Anh chẳng cần đèn để dò đường đi. Nhưng có đèn anh sẽ đỡ bị người khác đâm
vào anh. Vậy anh cứ cầm lấy đi."
Người mù cầm đèn
mạnh dạn bước đi. Nhưng chẳng bao lâu, có kẻ đâm thẳng vào anh ta.
- "Ô hay! Đi
đứng phải coi chừng một chút chứ. Bộ ông không nhìn thấy ánh đèn của tôi sao?"
Người lạ mặt trả
lời chậm rãi:
- "Này ông
bạn ơi ! Đèn ông bạn đã tắt từ lâu rồi..." (*)
Lời bình của
Nguyên Si
Chắc hẳn sẽ có kẻ
đa sầu đa cảm đọc chuyện này mà động mối thương tâm, trách ta sao lấy sự tàn
tật của người đời mà làm trò cười cho thiên hạ. Ta xin gạt nước mắt cho người,
và đáp : luân lý hay phi luân lý đều không có chỗ đứng trong chuyện Thiền.
Dĩ nhiên vẫn có
những kẻ trình bày hay hiểu chuyện Thiền như những bài học luân lý, lại có kẻ
khác rêu rao rằng Thiền là một hệ thống triết lý hoàn toàn phi luân lý, phi đạo
đức, phi nhân bản, phi vân vân. Ta thấy thật chẳng khác chi một đằng trói buộc
Thiền lại bằng một sợi dây khô cằn, cứng nhắc, một đằng ném tung Thiền lên
thượng tầng không gian, để rồi nhào xuống... hố thẳm của tư tưởng. Hơn nữa,
chưa thấu được lẽ Không mà đã bài bác tất cả, ta e ngại rằng thái độ đó chẳng
là kiêu ngạo lắm thay!
Cho nên vấn đề
luân lý hay phi luân lý thường đưa tới cố chấp hay ngạo mạn, cả hai đều trái
ngược với tinh thần Thiền vậy.
Chuyện Thiền
thường có giá trị biểu tượng, cho nên "mù" ở đây phải hiểu theo một
nghĩa rất rộng, chẳng những bao gồm những kẻ không có mắt, mà còn gồm những kẻ
"có mắt không ngươi", những kẻ tuy giác quan đầy đủ, nhưng nhận thức
vẫn sai lầm. Nói như vậy thì câu chuyện trên xảy ra mỗi ngày, và ở mọi nơi,
chẳng có chi là hiếm lắm thay!
Nhận định sai lầm
đầu tiên của kẻ mù là khi được người bạn trao cho cây đèn, anh chỉ nghĩ đến một
mặt của cái dụng, tức là soi đường cho anh đi. Anh quên rằng cây đèn còn có thể
soi sáng anh như soi sáng một đồ vật, để kẻ khác nhìn thấy mà tránh anh. Ôi,
chẳng qua là chấp ngã quá mà thôi! Kẻ ngu si luôn luôn coi mình như trung tâm của
vũ trụ, như chủ thể của mọi tiếp xúc. Có biết đâu rằng mình cũng chỉ là một sự
vật trong thế giới tương quan, một đối tượng cho một chủ thể khác.
Ta chợt nhớ tới
mùa hè trong thư viện, thường có những kẻ cởi giày cho mát mẻ đôi chân. Chủ thể
được mát mẻ, nhưng có biết đâu rằng đôi chân cũng là một đối tượng gây nhiều
"khó khăn" cho những kẻ khác?
Sai lầm thứ nhì
của kẻ mù là khi có cây đèn rồi, thì lại chấp chặt vào ý niệm đèn sáng, cho nên
quên rằng cây đèn có thể tắt đi. Ôi ! còn gì dễ lu mờ, dễ tắt hơn ngọn đèn đang
sáng tỏ? Còn gì tiêu biểu hơn cho tính vô thường của vạn vật, như trong kinh
Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa, đã có nói:
"Hãy coi thế
giới biến ảo này như một ngôi sao mờ dần buổi bình minh, một chiếc bọt trên giòng
sông, một ánh chớp trong đám mây hè, một ngọn đèn le lói, một bóng hình, một
giấc mộng."
Lý do của sự chấp
thường là thiếu sót hai thái độ thực nghiệm và phương tiện thường được đề cao
trong đạo Phật.
Thái độ thực
nghiệm tức là tìm cách sống gần sự vật, để cho ý niệm của mình về sự vật phù
hợp trong mỗi giây phút với sự vật. Như trong câu chuyện, nếu không nhìn thấy
ánh sáng thì anh mù vẫn có thể dùng giác quan khác để biết đèn sáng hay đèn
tắt, chẳng hạn như lấy tay đo nhiệt độ của cây đèn. Không có thực nghiệm thì
con người sẽ chấp vào một ý niệm của mình, một ý niệm tách rời sự vật.
Thái độ phương
tiện nghĩa là hiểu rõ phương tiện, và hiểu rằng phương tiện không phải là chân
lý, rằng ngón tay (chỉ mặt trăng) không phải là mặt trăng. Người mù trong câu
chuyện không hiểu phương-tiện-đèn là gì, không hiểu chức năng của nó. Ta lại
nghĩ đến những kẻ chấp nhận chủ thuyết này nọ, mà không hề thấu hiểu rằng những
chủ thuyết đó chỉ là những phương tiện cần phải được ứng dụng tùy theo hoàn
cảnh.
Nhưng cái nguy hại
nhất của sự mù lòa, ngu dốt, không phải do chính sự ngu dốt này mà do những bộc
phát tình cảm từ đó đưa tới. Nghĩ rằng mình mù lòa đưa tới mặc cảm tự ti, sự
buồn bã, chua xót, trách đời. Nghĩ rằng mình có ánh đèn che chở đưa tới thái độ
ngạo mạn, hung hăng, gây gổ. Ta thấy vậy mà chép miệng than rằng :
Ôi ! trên thế giới
này, những kẻ trái lý, sai lầm, ngu si, đần độn nhiều lắm thay ! Chỉ khác với
câu chuyện trên là khi nghe nói "đèn tắt rồi", người mù liền tỉnh
ngộ, trong khi đó nói lên sự thật cho những kẻ "có mắt không ngươi"
lại như chế dầu vào lửa, càng làm cho họ thêm hung hăng...
Bàn về thiên hạ
mãi rồi, Nguyên Si mới vỗ đầu chợt nhớ tới mình vốn cũng là một phần của thiên
hạ. Ôi! đa tạ đức sinh thành đã đặt tên cho ta là Nguyên Si. Mỗi lần ta tự gọi
tên, cũng là một lời tự nhủ : Si ơi là Si ! Ngu ơi là ngu... Chân lý thì vô
cùng tận mà tâm trí ta thì bé nhỏ vô cùng. Chẳng khác chi kẻ mù với một cây đèn
đã tắt.
Thế rồi, từ khiêm
tốn ta đi tới buồn lo, lo mãi rồi thì đi kiếm sách đọc, kiếm sách đọc thì gặp
một bài thơ của Thiền sư Vạn Hạnh,
ý nhị vô cùng :
Thân như điện ảnh
hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh,
thu hựu khô
Nhậm vận thịnh
suy, vô bố úy
Thịnh suy như lộ
thảo đầu phô.
Tạm dịch là :
Sự vật như bóng
chớp, có rồi lại không
Cây cối vào xuân
thì tươi, đến thu lại khô
Mặc kệ thịnh suy
xoay vần, không lo sợ gì
Thịnh suy chỉ như
hạt sương trên đầu ngọn cỏ.
Ôi ! Sự vật như
bóng chớp, như hạt sương, như bèo bọt. Có không hay thịnh suy chỉ là hai trạng
thái của một sự vật biến chuyển, hai trạng thái do tâm ta phân biệt mà thôi.
Có chi mà lo sợ
buồn rầu, có chi mà kiêu ngạo hung hăng?
Phải rồi ! Anh bạn
mù ơi, độc giả mù ơi ! Đừng có lôi thôi nữa.
Hãy tắt đèn trên
câu chuyện này đi, mà ra giòng sông nhìn bọt nước vỡ tan, ra cánh đồng nhìn hạt
sương bốc theo làn gió ấm.
Nguyên
Si
(*) Dịch thoát theo quyển
"101 chuyện Thiền" ("Zen flesh, Zen bones") do Paul Reps
soạn.
(ảnh:vdaikynguyen)
(ảnh:vdaikynguyen)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét