Tìm
hiểu Văn học:
LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ:
Vào khoảng 3000 năm trước, cộng đồng thiểu số Mon-Khmer và Tày
đã tràn vào khu vực sông Hồng và sông Mã. Họ cùng chia sẻ nhau một ngôn ngữ là
Việt Mường. Hai nhóm người này cùng phát triển ngôn ngữ “thổ ngữ địa phương”, gọi
là tiếng Kinh và tiếng Thượng. Chữ Kinh là chỉ dân chúng sống vùng đồng bằng và
tiếng Thượng chỉ dân chúng sống ở vùng cao.
Khoảng 60 phần 100 ngôn ngữ Việt có
nguồn gốc tiếng Hoa (chữ Hán). Nhiều chữ căn bản có bản âm Mông-Khmer. Trong tiếng
Việt có 6 âm: không, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng.
Khi người Hoa (thường gọi là người Tàu)
chiếm cứ và sáp nhập đất Giao Chỉ vào nước Tàu vào năm 111 sau Tây lịch, các
quan lại cai trị nước ta gọi là Quan Thái Thú đã đưa hệ thống cai trị nước Việt
nằm trong hệ thống quan viên Tàu và dạy chữ Hán cho dân chúng Việt. Trong suốt
1000 năm bị lệ thuộc Tàu, ngôn ngữ Tàu đã trở thành ngôn ngữ chánh thức của nước
ta, ngày càng ảnh hưởng mạnh, càng phát triển
Lúc đó, có hai ngôn ngữ cùng tồn
tại: Vùng đồng bằng hay thành thị thì tiếng Tàu (Hán tự) còn vùng cao (thượng
du) thì ngôn ngữ Mường.
Đến thế kỹ thứ X sau Tây lịch, nước Việt
đã thoát ảnh hưởng Tàu và thành một nước độc lập tự trị gọi là Đại Việt. Trong
suốt 10 thế kỹ độc lập sau đó, ngôn ngữ chính ở nước ta vẫn là chữ Hán. Những kỳ
thi tập khoa bãng sử dụng chữ Hán, nhưng tiếng nói trong dân gian thường nhật là
ngôn ngữ cổ ở vùng cao. Rồi từ từ, ông cha ta đã phối hợp dùng hình thái chữ Hán
và âm giọng Việt thành chữ nôm.
Theo lịch niên giám còn lưu truyền, ông
Hàn Thuyên (cuối thế kỹ 13) là nhà thơ đầu tiên ở nước ta đã sáng tác thơ văn bằng
chữ nôm. Nhưng mẫu tự chữ nôm vẫn viết theo chữ Hán trong suốt thời kỳ nhà Đường
cai trị bên Tàu.
Lịch sử văn hóa Việt nam còn ghi nhận
những tác phẩm văn chương nổi tiếng viết bằng chữ nôm như Hoàng Lê Nhất Thống
Chí, Truyền Kỳ Mãn Lục, Linh Nam Trích Quái….Sang đến thế kỹ 17, 18 nhiều truyện
dài bằng thơ chữ nôm nổi tiếng ai cũng biết là Kim Vân Kiều (Nguyễn Du), Chinh
Phụ Ngâm (Đoàn Thị Điểm) chuyển dịch từ truyện thơ của Tàu. Trong khi đó, các tác
phẩm văn chương vẫn viết bằng chữ Hán và chốn quan trường chữ nôm vẫn còn bị cấm
không cho phép sử dụng. Tóm lại, chữ Việt đã bị ảnh hưởng chữ Hán rất nhiều và để
dễ sử dụng chữ Hán đã bị Việt nam hóa, đôi lúc rất khó nhận ra.
Đến thế kỹ 17, nhiều nhà truyền giáo Đạo
Thiên Chúa Âu Châu đã sang nước ta và khi giao tiếp, nhờ sự giúp đỡ của các người
Việt theo Đạo, đã thông thạo ngôn ngữ Việt. Nhưng trở ngại là chữ nôm vẫn còn
viết theo cấu trúc chữ Hán rất khó cho việc sưu tầm và tìm hiểu Đạo Chúa của người
mới vào Đạo nên họ đã suy nghĩ tìm tòi sáng chế ra một ngôn ngữ mới theo mẫu tự
Latin, thoãng âm tiếng Việt.
Đó là chữ Quốc ngữ (national language) .
.
AI
THỰC SỰ TÌM RA CHỮ QUỐC NGỮ?
Chữ Quốc ngữ ra đời ở đâu,
năm nào và còn những ai thực sự đã có công với chữ Quốc ngữ? Sự thật ở đâu?
Alexandre De Rhode
Chữ Quốc ngữ ra đời vào năm 1622 trong
thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, do công đầu của người giáo sĩ Bồ Đào Nha tên
là Francisco De Pina (1585-1625), tại
xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn. .
Francisci De Pina là giáo sĩ tiên phong đến Đàng Trong năm 1617, nhờ thông thạo tiếng Nhật và chữ Hán, ông dễ dàng học nói tiếng Việt, học đọc chữ Nôm, nhưng thấy các giáo sĩ khác gặp khó khăn trong việc học chữ Nôm nên đã dựa vào bảng mẫu tự La Tinh, theo ông Nguyễn Đình Đảng thì cho rằng là dựa vào từ mẫu tự Rô-Măng, chúng tôi thì nghĩ mẫu tự Roman cũng từ nguồn gốc Latin mà ra, để ghi âm tiếng bản xứ. .
Năm 1624, sau khi đã xếp đặt thành hệ thống, có cả phần tóm lược về văn phạm, ông mở lớp dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ muốn đến truyền giáo tại Việt nam, ông cũng tự viết bài giảng bằng thứ chữ này để trực tiếp truyền đạo, nhưng không may, vào tháng 12 năm 1625 ông bị chết đuối ở cảng Đà nẵng miền Trung Việt nam. .
Sau cái chết của ông Pina, những giáo sĩ đã học tiếng Việt với Pina tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống chữ viết nầy là giáo sĩ Gaspar De Amaral (1549-1646) – tác giả tự điển Việt-Bồ, giáo sĩ Antonio Barbosa (1594-1647) – tác giả tự điển Bồ-Việt, giáo sĩ Alexandre De Rhodes (1591-1660) – tác giả tự điển Việt-Bồ-La tinh.
Francisci De Pina là giáo sĩ tiên phong đến Đàng Trong năm 1617, nhờ thông thạo tiếng Nhật và chữ Hán, ông dễ dàng học nói tiếng Việt, học đọc chữ Nôm, nhưng thấy các giáo sĩ khác gặp khó khăn trong việc học chữ Nôm nên đã dựa vào bảng mẫu tự La Tinh, theo ông Nguyễn Đình Đảng thì cho rằng là dựa vào từ mẫu tự Rô-Măng, chúng tôi thì nghĩ mẫu tự Roman cũng từ nguồn gốc Latin mà ra, để ghi âm tiếng bản xứ. .
Năm 1624, sau khi đã xếp đặt thành hệ thống, có cả phần tóm lược về văn phạm, ông mở lớp dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ muốn đến truyền giáo tại Việt nam, ông cũng tự viết bài giảng bằng thứ chữ này để trực tiếp truyền đạo, nhưng không may, vào tháng 12 năm 1625 ông bị chết đuối ở cảng Đà nẵng miền Trung Việt nam. .
Sau cái chết của ông Pina, những giáo sĩ đã học tiếng Việt với Pina tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống chữ viết nầy là giáo sĩ Gaspar De Amaral (1549-1646) – tác giả tự điển Việt-Bồ, giáo sĩ Antonio Barbosa (1594-1647) – tác giả tự điển Bồ-Việt, giáo sĩ Alexandre De Rhodes (1591-1660) – tác giả tự điển Việt-Bồ-La tinh.
.
Trong đó chỉ có một mình Alexandre De Rhodes là người Pháp (ông sinh ở vùngAvignon ,
nước Pháp). .
Đúng như TS. Nguyễn Tường Bách đã nhận định:
Trong đó chỉ có một mình Alexandre De Rhodes là người Pháp (ông sinh ở vùng
Đúng như TS. Nguyễn Tường Bách đã nhận định:
“Mục
đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt
và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà
cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm.
Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có
lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật.”
Vì là sản phẩm của người Pháp, nên chữ quốc
ngữ bị giới sĩ phu thời bấy giờ tẩy chay. .
Chữ nôm còn bị chê là nôm na mách qué, thời cái thứ chữ do bon Bạch quỉ chế ra này các cụ có mà thèm để mắt!
Sau đó, chữ quốc ngữ còn bị cho là công cụ của người Pháp trong việc cai trị nước ta. Vã lại vì nó mà cả một nền Nho học với bao công lao dùi mài kinh sử trở thành vô dụng nên thứ chữ quốc ngữ này lúc ban đầu càng bị khinh ghét. Nhưng sự tiện dụng và sức sống mãnh liệt của chữ quốc ngữ càng ngày càng lộ rõ, càng trở nên thắng thế.
Chữ nôm còn bị chê là nôm na mách qué, thời cái thứ chữ do bon Bạch quỉ chế ra này các cụ có mà thèm để mắt!
Sau đó, chữ quốc ngữ còn bị cho là công cụ của người Pháp trong việc cai trị nước ta. Vã lại vì nó mà cả một nền Nho học với bao công lao dùi mài kinh sử trở thành vô dụng nên thứ chữ quốc ngữ này lúc ban đầu càng bị khinh ghét. Nhưng sự tiện dụng và sức sống mãnh liệt của chữ quốc ngữ càng ngày càng lộ rõ, càng trở nên thắng thế.
-
Năm 1915: vua Duy Tân bãi bỏ chế độ thi cử cũ ở Bắc kỳ.
- Năm 1918: vua Khải Định bãi bỏ thi cử cũ ở Trung kỳ.
- Năm 1919: vua Khải Định chính thức đóng cửa các trường
dạy chữ Nho.
-
Ngày 18-9-1924: Merlin, Toàn quyền Đông dương ký nghị định đưa chữ quốc ngữ vào
dạy trong 3 năm đầu bậc Tiểu học.
Nền Nho học đã
cáo chung, chữ Quốc ngữ lên ngôi. Ta vẫn còn nghe câu thơ của cụ Tú Xương:
Nào có lạ
gì cái chữ nho,
Ông nghè,
ông cống cũng nằm co.
Sao bằng đi
học làm ông Phán,
Tối rượu
sâm banh, sáng sữa bò.
(Chữ Nho)
– Tú Xương
Tóm lại, chính
người Bồ Đào Nha đã khai sinh ra chữ Quốc ngữ, người Pháp ép dân ta dùng chữ
Quốc ngữ.
Nhưng truyền
bá và trau chuốt cho chữ Quốc ngữ được như ngày hôm nay công lớn nhất phải
thuộc về những người tiên phong tiêu biểu như: Huỳnh Tịnh Của, Pétrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh… cùng với họ
một đội ngũ tân học ngày càng đông, nhiều tài năng, đầy nhiệt huyết và dũng
cảm.
Những người con ưu tú đó đã được nhớ ơn, được tôn vinh bằng những tên đường trong đô thị. .
Vậy mà trong những người đi đầu ấy, có một người hình như bị bỏ quên. .
Một người có tư cách sáng chói, có trí thông minh và chí tự học siêu việt, từ thân phận một thằng nhỏ 8 tuổi chưa biết chữ kéo quạt tại trường Thông ngôn Yên phụ-Hà nội, năm 14 tuổi đã đỗ thủ khoa lớp thông ngôn của chính trường này, là người Việt đầu tiên được gia nhập Hội Nhân quyền Pháp, người đầu tiên xuất bản tờ báo bằng chữ quốc ngữ ở Hà nội, tờ Đại nam Đăng Cổ Tùng Báo, người đầu tiên dịch các tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt, người đầu tiên dịch truyện Kiều sang tiếng Pháp, người đứng đơn xin mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục (Cụ Lương Văn Can làm Hiệu Trưởng), người chống quân chủ lập hiến kiểu bù nhìn đòi thành lập nền Cộng hoà, người mà trong lời tựa bản dịch Tam Quốc Chí đã viết “Nước Nam ta mai sau này hay, dở cũng là ở chữ quốc ngữ”, người 2 lần từ chối Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp, người mà lúc chết trên thuyền độc mộc ở sông Sê-băng-hiêng, Sê-pôn – Lào, hai tay vẫn cầm cây bút và quyển sổ với phóng sự đang viết dở dang “Một tháng với những người tìm vàng”. Người đó là NGUYỄN VĂN VĨNH
Những người con ưu tú đó đã được nhớ ơn, được tôn vinh bằng những tên đường trong đô thị. .
Vậy mà trong những người đi đầu ấy, có một người hình như bị bỏ quên. .
Một người có tư cách sáng chói, có trí thông minh và chí tự học siêu việt, từ thân phận một thằng nhỏ 8 tuổi chưa biết chữ kéo quạt tại trường Thông ngôn Yên phụ-Hà nội, năm 14 tuổi đã đỗ thủ khoa lớp thông ngôn của chính trường này, là người Việt đầu tiên được gia nhập Hội Nhân quyền Pháp, người đầu tiên xuất bản tờ báo bằng chữ quốc ngữ ở Hà nội, tờ Đại nam Đăng Cổ Tùng Báo, người đầu tiên dịch các tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt, người đầu tiên dịch truyện Kiều sang tiếng Pháp, người đứng đơn xin mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục (Cụ Lương Văn Can làm Hiệu Trưởng), người chống quân chủ lập hiến kiểu bù nhìn đòi thành lập nền Cộng hoà, người mà trong lời tựa bản dịch Tam Quốc Chí đã viết “Nước Nam ta mai sau này hay, dở cũng là ở chữ quốc ngữ”, người 2 lần từ chối Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp, người mà lúc chết trên thuyền độc mộc ở sông Sê-băng-hiêng, Sê-pôn – Lào, hai tay vẫn cầm cây bút và quyển sổ với phóng sự đang viết dở dang “Một tháng với những người tìm vàng”. Người đó là NGUYỄN VĂN VĨNH
.
Người tự cho
mình là người man di hiện đại.
.
Người đó là Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh. .
Đó là một người xuất chúng và có công lớn với nền văn hoá hiện đại của nước nhà, với chữ Quốc ngữ Việt nam.
Người đó là Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh. .
Đó là một người xuất chúng và có công lớn với nền văn hoá hiện đại của nước nhà, với chữ Quốc ngữ Việt nam.
Đầu thế kỹ 20, chữ nôm và chữ quốc ngữ được sử dụng song hành.
Vài hình ảnh những lớp học xưa.
Vài hình ảnh những lớp học xưa.
Thầy đồ dạy chữ Hán .
(1 lớp học thời Pháp).
(lớp Bình dân học vụ ở miền Bắc trước 1954)
Giúp cho việc
phát triển chữ quốc ngữ một cách nhanh chóng hơn phải kể là sự phát hành các tờ
báo Việt ngữ như:
- Tờ Gia định báo
(15-4-1865) tại Sài gòn do ông Trương vĩnh Ký làm chủ nhiệm.
- Tờ Nông Cổ Mín Đàm
(01-8-1901) do Paul Sanavaggio, Lương khắc Ninh, Trần chánh Chiếu, Trần chánh Sắt
lần lượt làm chủ nhiệm.
- Tờ Tiếng Dân
(1927) tại Trung phần của ông Huỳnh thúc Kháng.
- Tờ Trung Bắc Tân Văn
(tháng 01-1919) tại Trung phần
- Tờ Nữ Giới Chung
do bà Sương Nguyệt Anh làm chủ nhiệm tại Sài gòn năm 1918.
- Tờ Nam Phong Tạp Chí
(1918) tại Hà nội do ông Phạm Quỳnh chủ trương.
Và nhiều tờ
báo quốc ngữ khác góp phần không nhỏ cho việc phổ biến, hoàn hảo một nền quốc
ngữ khá vững chắc cho đến bây giờ. Trong âm hưởng chữ quốc ngữ cũng bàng bạc
cung cách, âm điệu, ý nghĩa thâm thúy, sâu đậm của bản sắc, phong tục gốc chữ
nôm truyền thống lâu đời của dân gian nước Việt.
Nhưng ngày
nay, trong nước cũng như ngoài nước, người Việt mình chỉ còn sử dụng chữ Quốc
ngữ là ngôn ngữ chính, bên canh ngôn ngữ chính của quốc gia họ định cư.
Trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại, nhiều trung tâm dạy Việt ngữ đã được
lập ra để các thế hệ kế thừa duy trì ngôn ngữ, văn hóa, hiểu biết lịch sử, địa
lý nước nhà. Cũng chính sự xuất hiện chữ quốc ngữ viết theo mẫu tự Latin, giúp
cho người am tường tiếng Việt học sinh ngữ Anh, Pháp, Spanish, Ý, Đức …dễ dàng
hơn và cũng nhờ vậy mà các em chưa biết tiếng Việt cũng dễ nhập vào ngôn ngữ Việt
truyền thống cha ông từ ngôn ngữ chính ở xứ nói, viết theo mẫu tự Latin.
Một dân tộc có bốn ngàn năm lịch sử, nói
tiếng Việt lâu đời nhưng sau 300 năm sáng chế, tu chỉnh, sửa đổi và làm nên hoàn
hảo, dân tộc chúng ta mới có nền Quốc ngữ chính thức tính đến nay chưa đầy 200
năm (chính thức từ 1924). Có nghiên cứu học hỏi chúng ta mới thấy chữ Việt (hay
quốc ngữ) là ngôn ngữ giàu đẹp, phong phú, tình tự, lịch sự nhứt trong các ngôn
ngữ trên thế giới.
Xin hãy nhàn nhã ngâm nga đọc đoạn thơ
sau đây của Nguyễn công Trứ tả Nàng Kiều:
“Dưới
hoa nép mặt gương lồng bóng,
Ngàn liễu rung cương sóng
gợn tình”.
Hay bài thơ cụ Nguyễn Khuyến tả mùa
thu ngồi câu cá:
Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé
tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi
gợn tí,
Lá vàng trước gió sẻ đưa
vèo.
Từng mây lơ lững trời
xanh ngát.
Ngõ
trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa
gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp đọng dưới
chân bèo”. (Nguyễn Khuyến)
Hay để tâm hồn nhè nhẹ, thư thả đọc những
vần thơ mỹ miều, dịu ngọt trong bài thơ tình lãng mạn gần đây tựa đề “Áo lụa Hà
Đông” của nhà thơ tình nổi tiếng Nguyên Sa mới thấy cái tính siêu việt đầy ý
nghĩa của chữ quốc ngữ Việt nam:
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng,
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.
*
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn,
Mà mua thu dài lắm ở chung quanh.
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung,
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa……
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng,
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.
*
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn,
Mà mua thu dài lắm ở chung quanh.
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung,
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa……
………………….(Nguyên
Sa Trần bích Lan).
Hồ Xưa_________________________________________
Viết lại và dịch
theo:
- Tài liệu của ĐXĐ (SG: 12-5-13)
-
www.vietnam-language.com.
- National
language.net
-
Vietnam-culture.net.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét