Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2021

CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC LÀ GÌ? - Matsushita Konôsuke,NS.Hùng Dịch



 Tác giả: Matsushita Konosuke, trích từ “Triết học của Mattsushita Kônosuke” xuất bản năm 2002, trang 253-258. 

Người dịch: Nguyễn Sơn Hùng

Lời giới thiệu của dịch giả: Ông Matsushita Kônosuke viết bài dưới đây để giới thiệu quan điểm về giáo dục của ông vào tháng 10 năm 1948 trong chuỗi bài “Lời ngỏ của PHP” xuất bản hàng tháng. Tựa bài viết và tiểu tựa do dịch giả phỏng dịch. Phần nội dung dịch giả cố gắng dịch sát nguyên bản. Phần chữ nghiêng là phần quan trọng trong bài theo chủ quan của dịch giả. Bài viết của ông cách đây trên 70 năm, nhưng vẫn còn giá trị để chúng ta suy nghĩ và xem xét, là động cơ dịch giả dịch bài này.

***

Cơ sở giáo dục là truyền dạy và thực tập cách sống làm người

   Cơ sở để sống cuộc đời an bình và hạnh phúc đồng thời điểm phồn vinh đến xã hội hiển nhiên là giáo dục. Một khi giáo dục được thực hiện tốt thì chính trị tốt được thực hiện và xã hội tốt sẽ được hình thành. Nếu giáo dục xấu thì hại việc trên không có khả năng thực hiện được. 

   Giáo dục là đào tạo con người. Nói đến đào tạo con người thì cũng có thể xem xét theo quan điểm của ưu sinh học (1) nhưng giáo dục, đào tạo con người vốn dĩ là nuôi dưỡng năng khiếu đã có sẵn lúc chào đời, nghĩa là nâng cao nhân tính (2). Để nâng cao nhân tính, điều trọng yếu là nuôi dưỡng 3 hoạt động chính yếu của con người là trí-tình-ý (lý trí, tình cảm và ý chí) và nhất là đào tạo để có quân bình giữa 3 hoạt động này. Con người được đào tạo để có thể duy trì trọn vẹn quân bình giữa 3 hoạt động trí-tình-ý mới thật sự là con người ưu tú; có thể xem như là đã hoàn thành được nhân cách.

   Con người vốn dĩ phải sử dụng kiến thức, nhưng nếu thực hiện phương pháp giáo dục đã đánh mất quân bình giữa lý trí, tình cảm và ý chí, thì ngược lại con người sẽ bị kiến thức sử dụng, và trở thành cái gọi là nô lệ của kiến thức. Con người nô lệ kiến thức này cố chấp vào trí tuệ và tài năng của con người mà khinh thường đạo lý (3) của trời đất, tự nhiên. Việc này nhất định sẽ không đem đến hạnh phúc, hòa bình và phồn vinh cho loài người. Bởi vì lý do nói trên mà tôi cho rằng nền tảng cơ sở của giáo dục là nâng cao nhân tính bằng việc thực hiện nuôi dưỡng và duy trì quân bình giữa 3 hoạt động lý trí, tình cảm và ý chí.

   Đào tạo con người bằng cách điều hòa và nuôi dưỡng lý-tình-ý là căn bản của giáo dục. Đối với loại giáo dục đã quên mất điều này thì người ta không nghĩ đến việc đào tạo để trở thành con người mà chỉ nghĩ đến truyền dạy kiến thức và kỹ năng (4) , và kết quả của giáo dục chỉ là đào tạo con người thành con vật có kiến thức và kỹ năng. Để tránh điều này, tôi nghĩ là không phải chỉ truyền dạy học thuật, kỹ thuật và nghệ thuật mà cơ bản là còn phải truyền dạy và bắt người học thực tiễn cách sống đúng nghĩa làm người. Một khi sống với tư cách con người thì cần phải hiểu và nắm rõ ý nghĩa của đời người hoặc ý nghĩa của con người. Có hiểu và nắm rõ được các điều này thì mới hiểu được mỗi ngành nghề đều có ý nghĩa và thấy được lẽ sống của đời người. Người học có lĩnh hội được các điều nói trên mới đúng là giáo dục. Tuy nhiên, điều trọng yếu là không phải chỉ truyền đạt cho biết mà còn phải cho người học thực tiễn thành thói quen. Công việc này người Nhật gọi là shitsuke (5), nghĩa là tu thân sửa tánh để sống xứng đáng làm người (người có nhân cách).

   Shitsuke viết là “tu sửa thân cho tốt đẹp”, và ý nghĩa của shitsuke không phải chỉ biết học thuật, kỹ thuật và nghệ thuật mà phải thực hành được chúng đồng thời có được cách sống đúng nghĩa con người và càng ngày càng nâng cao nhân tính. Tuy nhiên, giáo dục hiện nay thực tế chỉ chú trọng vào việc giảng dạy học thuật, kỹ thuật và nghệ thuật mà không đoái hoài mấy tới việc tập luyện cách sống đúng nghĩa của con người. Ngay cả phía học phần động của cũng có khuynh hướng cho rằng biết được học thuật, kỹ thuật và nghệ thuật là hoàn tất xong việc học.  

   Thật ra, nếu chỉ để biết được học thuật, kỹ thuật và nghệ thuật thì không khó lắm. Chỉ cần lập đi lập lại vài lần để nhớ là được. Nhung tu thân sửa tánh để sống xứng đáng làm người cần phải có nỗ lực rất lớn cho cả hai phía, phía dạy và phía học. Bởi vì cả hai phía đều phải để tâm lưu ý sống chính trực (6) với nhau đồng thời cũng cần phải không ngừng cố gắng và tập trung tinh thần trao dồi. Hơn nữa, hiệu quả của công việc này lại khó thấy. Trong khi đó nếu học để biết kiến thức thì chỉ cần nỗ lực trong lúc học là xong và phần lớn là có hiệu quả tức thời. Vì lý do này nên việc tu thân sửa tánh để sống xứng đáng làm người không được quan tâm, và học thuật, kỹ thuật và nghệ thuật trở thành chủ yếu. Tôi nghĩ đây chẳng phải là thực trạng của cả phía dạy và phía học hiện nay sao?

Cách dạy cần bình dị và tự nhiên, và đã học phải hành

   Trong truyền thống quá khứ của Nhật Bản (7) về phương pháp truyền dạy và thực tập cách tu thân sửa tánh để sống đúng nghĩa con người, có hình thức cho tự thể nghiệm, có hình thức huấn luyện những cách nào cũng đều gò bó ép chế con người vào một mẫu mực, khuôn khổ nhất định. Về điểm này tôi nghĩ ngày nay cần phải thực hiện với ít nhiều tự nhiên và phóng khoáng hơn.

   Thí dụ đối với một điều đạo đức nào đó, phương pháp dạy tu thân sửa tánh của Nhật Bản (7) có khuynh hướng bắt con người tuân thủ, phục tùng điều luật này một cách rất hình thức. Do đó, phương pháp này ngược lại tạo cho số đông không thấm nhuần và không hiểu thấu đáo ý nghĩa của nội dung mà chỉ làm cho lấy có. Về điểm này ở Mỹ người ta thực hiện việc truyền dạy và thực tập tu thân sửa tánh này rất tự nhiên, cả 2 mặt hình thức và tư duy. Đạo đức cần phải giữ nhưng không bắt buộc phải theo một hình thức phức tạp phiền toái mà với một hình thức thật bình dị, nghĩa là từng người một có thể giữ phép tắc hoặc tuân theo cách thích hợp với họ. Do đó, điều quan trọng của công việc truyền dạy và tập luyện tu thân sửa tánh hiện nay cần phải được thực hiện với phong cách tự do và đặt trọng điểm vào bản chất của nội dung chớ không phải câu nệ vào hình thức bên ngoài.  

   Mới gần đây, một tướng lãnh trẻ người Mỹ khi tham quan công trường chế tạo của công ty tôi đã có ý kiến sau “Phòng nghiên cứu của quý công trường làm công việc nghiên cứu. Dĩ nhiên công việc nghiên cứu là cần thiết và không có vấn đề nhưng theo tôi còn có một công việc khác quan trọng nhiều hơn. Đó là việc thực hành hoàn hảo tất cả các kiến thức đang có”. Vị tướng lãnh là nhà kỹ thuật 26 tuổi đã được huấn luyện thuần thục với tư duy rằng phải thực tiễn tất cả những gì đã học nên có được trực quan như trên. Trong quá khứ đã có rất nhiều khách trong các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau đến tham quan và khi xem đến phòng nghiên cứu tất cả đều nói “Có phòng nghiên cứu này quý công ty sẽ sản xuất được sản phẩm tốt và chính nơi đây là cơ sở gầy dựng sự tin cậy của khách hàng”, và bản thân chúng tôi cũng đã nghĩ như thế. Tuy nhiên lời nói của vị tướng lãnh trẻ này đã thật sự dạy cho chúng tôi một bài học. 

   Từ trước đến nay giáo dục Nhật Bản (7) phân tách tri thức và thực hành ra riêng biệt. Ở Mỹ dù nghiên cứu là mục đích hàng đầu nhưng nếu nghiên cứu để biết thôi thì không giúp ích gì cho đời sống con người. Kiến thức mà không đi chung với thực hiện thì giống như cái bánh vẽ, có thực hiện kiến thức thì mới sinh ra giá trị. Tôi nghĩ rằng cách tư duy này không mấy được dạy ở Nhật Bản. Người ta thường nói giáo dục ở Nhật Bản là loại buôn bán lẻ (8), tôi nghĩ rằng giáo dục Nhật Bản cần xem xét kỹ điểm này.  

    Trình độ hoàn bị của chế độ giáo dục Nhật Bản được đánh giá tương đối cao và số nhà giáo dục cũng to lớn. Tôi nghĩ rằng giáo dục là một trong những lĩnh vực mà nhà nước đang nỗ lực đầu tư lớn nhất. Nhưng nếu hỏi công việc giáo dục này đã đạt thành quả gì thì có thể nói là không có gì đáng kể. Chứng cứ rõ ràng nhất là hiện nay chúng ta vẫn còn bần cùng, nghèo khó. Phương cách giáo dục từ trước đến nay thật ra chỉ truyền đạt học thuật, kỹ thuật và nghệ thuật nhưng chưa huấn luyện cho người học cách sống đúng đắn cho cuộc đời của họ, cái gọi là tạc “tượng phật không hồn”. Từ nay về sau, khi suy nghĩ vấn đề phồn vinh của Nhật Bản (7) chúng ta cần phải phản tỉnh sâu đậm về việc này và cần phải xúc tiến cơ sở giáo dục không sai lạc. 

    Bởi vì chỉ có trên nền tảng giáo dục tốt đẹp mới kiến tạo được đời sống con người hạnh phúc, hòa bình và xã hội phồn vinh. Ngoài ra, tôi nghĩ rằng chỉ khi nào có được nền giáo dục tốt đẹp thì phồn vinh của các dân tộc, hòa bình của thế giới mới bắt đầu có thể hứa hẹn.

                                           

Nguồn tiếng Nhật: Mattsushita Kônosuke – Cơ bản của giáo dục” trong sách “Triết học của Mattsushita Kônosuke”, cơ quan phát hành: Viện nghiên cứu PHP, năm 2002, trang 253~258 (Peace and Happiness through Prosperity).

Bài này được đăng đầu tiên trong nguyệt san của Viện nghiên cứu PHP trong chuỗi bài “Lời ngỏ của PHP” sau được tổng hợp thành sách với tựa “Lời ngỏ của PHP” xuất bản năm 1953, cải biên năm 1975 và năm 2002 được biên soạn lại và xuất bản với tựa mới là “Triết học của Mattsushita Kônosuke”. Sau đó sách này được tái bản vào năm 2009. Phiên bản dùng để dịch là phiên bản năm 2002.

Về tác giả: Ông Matsushita Konosuke sinh năm 1894, Minh Trị năm thứ 27. Lúc chín tuổi phải nghỉ học lớp bốn và rời quê hương lên thành phố Osaka để đi làm mướn không lương học nghề. Lúc 23 tuổi vì sức khỏe kém không thể tiếp tục làm công nhân của công ty điện lực nên phải nghỉ việc ra thành lập xưởng chế tạo dụng cụ điện để làm riêng. Lúc 34 tuổi số nhân viên trong xưởng lên đến 300 người, là tiền thân của công ty Panasonic hiện nay. Năm 42 tuổi thành lập thêm viện nghiên cứu Peace and Happiness through Prosperity (PHP). Năm 59 tuổi là người liên tục có thu nhập cao nhất Nhật Bản từ năm 1955-1959. Năm 1979, lúc 75 tuổi, lập học viện Matsushita Chính Kinh để đào tạo nhân tài về chính trị và kinh doanh. 

Ghi chú

  1. Ưu sinh học (eugenics) môn sinh học ứng dụng cải thiện nòi giống con người ưu việt hơn bằng di truyền học.
  2. Nhân tính: bản tính con người đã có khi chào đời.
  3. Kỹ năng: khả năng, tài năng sử dụng kỹ thuật.
  4. Shitsuke: người Trung quốc không có chữ Hán cho từ này, người Nhật tạo chữ Hán cho từ này bằng cách ghép chữ Hán của “thân” (chỉ thân thể) và “mỹ” (chỉ tốt đẹp) để diễn tả ý: tu thân sửa tánh thành con người tốt đẹp.
  5. Đạo lý: ở đây có thể hiểu là “quy luật”.
  6. Chính trực: ngay thẳng, không dối trá.
  7. Nguyên bản là “nước ta” nhưng ở đây dịch là Nhật Bản để dễ đọc hơn.
  8. Ý nói không truyền dạy hết một lúc mà chỉ truyền dạy mỗi lần một ít.

🌸🌸🌸🌸🌸




10 điều thú vị ít biết về tiền giấy

Nữ hoàng Elizabeth II xuất hiện trên nhiều tờ tiền nhất, sở mật vụ Mỹ là cơ quan chống tiền giả là 2 trong số những điều thú vị về tiền giấy.


Hôm 21/4 vừa qua, chính phủ Mỹ chính thức cho ra mắt đồng 100 USD mới - một đồng tiền được thiết kế nhằm chống lại mọi hành vi sao chép kỹ thuật số hay làm giả. Đây có thể coi là một trong những bước tiến chưa từng có trong lịch sử tiền giấy của nhân loại.

Tuy nhiên, khi nhắc tới lịch sử của tiền giấy, từ đồng tiền cổ đầu tiên của Trung Quốc cho đến thời hiện đại, có rất nhiều điều thú vị về loại tiền đặc biệt này mà không phải ai cũng biết. Mới đây, tờ TIME đã cho công bố một loạt những sự thật về tiền giấy.

Dưới đây là 10 điều thú vị nhất về loại tiền được lưu hành rộng rãi nhất trong lịch sử loài có thể làm bạn ngạc nhiên.

1. Tiền giấy có kích thước lớn nhất



Xét về kích thước, đồng 100.000 peso được chính phủ Philippines phát hành trong năm 1998 được coi là đồng tiền lớn nhất so với tất cả các đồng tiền giấy hợp pháp được lưu hành cho đến nay. Với kích thước to bằng 1 tờ giấy A4, đồng tiền được phát hành để kỷ niệm 100 năm ngày Philippines thoát khỏi ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha. Đồng tiền chỉ phát hành với số lượng hạn chế cho một số nhà sưu tập. Để mua được nó, người ta phải trả tới 180.000 peso, tương đương 3.700 USD.

2. Tờ tiền giấy hiếm nhất
 

Tờ tiền hiếm nhất từng được phát hành là đồng 1 triệu bảng Anh của Ngân hàng trung ương Anh (BOE), ra mắt vào năm 1948 với tư cách là biện pháp tạm thời cho quá trình tái thiết đất nước sau chiến tranh. Đồng tiền được thiết kế dành riêng cho chính phủ Mỹ, song chúng bị hủy bỏ sau khi đưa vào sử dụng được vài tháng, do đó rất ít người được tận mắt nhìn cũng như có cơ hội sở hữu nó.

Mặc dù không còn được sử dụng song điều đó không có nghĩa là nó hoàn toàn vô giá trị. Trong năm 2008, 2 bản lưu cuối cùng của tờ tiền nổi tiếng được bán lại với giá 120.000 USD trong một phiên đấu giá.

3. Máy rút tiền tự động (ATM) đầu tiên

 

Sẽ thực sự vô cùng ngạc nhiên với nhiều người khi biết rằng máy rút tiền tự động (ATM) là ý tưởng tuyệt vời nhất từng xuất hiện trong bồn tắm tương tự Ácsimét.

Lịch sử ra đời của cỗ máy diễn ra như sau, trong một lần ngâm mình trong bồn tắm, nhà phát minh John Shepherd-Barron bất ngờ nghĩ ra ý tưởng về một cỗ máy giúp con người có thể rút tiền ở mọi lúc, mọi nơi và ở bất cứ nơi đâu, dù việc liệu ông có phải là người đầu tiên nghĩ ra ý tưởng này hay không thì vẫn còn vấp phải nhiều tranh cãi.

Sau đó, ông Barron bán thiết bị này cho ngân hàng Barclays của Anh. Cỗ máy nhanh chóng được chấp nhận và mẫu đầu tiên được sản xuất và lắp đặt ở thành phố London năm 1967.

Mặc dù chiếc máy này cũng sử dụng mã PIN (hay còn gọi là số nhận dạng cá nhân) - đây cũng là một ý tưởng mà Barron tuyên bố do chính ông sáng tạo ra - như những chiếc máy ngày nay, song nó lại chứa một nhược điểm, đó là: Để rút được tiền, bạn phải sử dụng một tấm séc được ngâm tẩm trong đồng vị phóng xạ carbon 14, bởi vào thời điểm đó các loại thẻ từ ATM vẫn chưa được phát triển. Một khác biệt nữa của chiếc máy này đó là: Nó không bao giờ tính phí rút tiền của bạn.

4. Nguồn gốc ký hiệu đồng USD



Không ai biết nguồn gốc của ký hiệu USD ($), song Văn phòng khắc và in ấn Mỹ - cơ quan chính phủ liên bang phụ trách việc thiết kế và in ấn tất cả đồng USD - đưa ra một giả thuyết khá thuyết phục. Theo đó, ký hiệu $ xuất phát từ ký hiệu biểu thị cho đồng peso của Tây Ban Nha và Mexico "PS". Theo thời gian, khi viết láu, nhiều người đã xếp chồng 2 ký hiệu này (ký hiệu S bên trên ký hiệu P) lên nhau và ký hiệu $ cũng ra đời từ đó.

Biểu tượng này được sử dụng rộng rãi trước khi đồng USD đầu tiên được phát hành vào năm 1875. Thêm một điều khá thú vị nữa đó là, nếu tinh ý, bạn có thể nhận thấy ký hiệu $ chưa bao giờ thực sự xuất hiện trên đồng USD.

5. Vòng đời của mỗi đồng tiền không giống nhau

Bất cứ đồng tiền nào rồi cũng sẽ bị hao mòn và cũ đi. Tờ tiền giá trị càng nhỏ, càng bị tiêu nhanh và tuổi thọ của nó cũng ngắn hơn. Đồng 1 USD chỉ tồn tại được có 21 tháng, trong khi đồng 100 USD in hình Benjamin Franklin thì có tuổi thọ tới 7 năm. Tất nhiên, trong thời gian đó, do lạm phát, giá trị tờ tiền sẽ giảm - và đó cũng là lý do hoàn hảo để bạn nên tiêu nó một cách nhanh chóng.

6. Chống tiền giả kiêm luôn bảo vệ tổng thống


 

Sau nội chiến, tiền giả trở thành vấn đề nhức nhối nhất của Mỹ - thời điểm đó có tới 1/3 số tiền đươc lưu hành bị cho là tiền giả. Điều này buộc chính phủ Mỹ phải bắt tay hành động.

Năm 1865, một ban đặc biệt thuộc bộ tài chính Mỹ được tách ra để đối phó với nạn tiền giả tràn lan đang làm suy yếu hệ thống kinh tế. Cơ quan này vẫn còn tồn tại đến ngày nay và vẫn kiêm luôn hoạt động chống tiền giả, song ít ai biết cơ quan đó cũng kiêm luôn công việc bảo vệ tổng thống và các nhà lãnh đạo cấp cao Mỹ và được biết đến với cái tên đáng sợ hơn - Mật vụ Mỹ.

Vì sao mật vụ Mỹ lại kiêm luôn 2 công việc cùng lúc? Đó là do vào ngày 14/4/1865, tổng thống Abraham Lincoln chính thức nắm quyền kiểm soát cơ quan mật vụ trên (trớ trêu thay, đó cũng là ngày ông bị ám sát ở nhà hát Ford's), do đó các nhà chức trách Mỹ quyết định cơ quan này sẽ kiêm luôn cả bảo vệ tổng thống. Sứ mệnh bảo vệ tổng thống được giao hoàn toàn cho Mật vụ Mỹ sau vụ ám sát tổng thống William McKinley vào năm 1901. Năm 2002, mật vụ Mỹ chính thức trở thành bộ an ninh nội địa với 6.500 nhân viên.

7. Nhân vật xuất hiện nhiều nhất trên tiền giấy



Nữ hoàng Elizabeth II của Anh chính là người xuất hiện nhiều nhất trên các tờ tiền. Ước tính, chân dung của bà có mặt trên các loại tiền của 33 quốc gia khác nhau, từ Australia cho tới Trinidad và Tobago - nhiều hơn bất kỳ nguyên thủ nào khác trên thế giới.

Canada lần đầu tiên sử dụng của hình ảnh người trị vì nước Anh trên tờ tiền vào năm 1935, khi đó bà Elizabeth mới 9 tuổi và được in lên tờ 20 USD. Theo thời gian, 26 chân dung của nữ hoàng Elizabeth được sử dụng trên các đồng tiền của Anh và các thuộc địa vũ, hiện tại, lãnh địa và vùng lãnh thổ của Anh.

Trên các tờ tiền thường in hình nữ hoàng đội vương miện và mặc trang phục giản dị, cá biệt có Canada và Australia sử dụng cả hình ảnh bà mặc trang phục giản dị và đeo ngọc trai.

Trong khi nhiều quốc gia thường xuyên in tiền mới để phù hợp với độ tuổi của nữ hoàng, một số khác vẫn kiên quyết giữ hình ảnh trẻ trung của bà.

8. Tiền  RẤT BẨN



Tất cả các loại tiền, dù tốt tới đâu, đều có thể bị nhiễm bẩn. Các nghiên cứu cho thấy phần lớn các đồng USD dính cocaine. Những kẻ buôn ma túy thường cầm tiền mặt bằng bàn tay dính đầy cocaine, một số khác thì dùng tiền cuộn tròn lại thành ống hút để hít ma túy, số khác thì bị lăn lộn trong những máy ATM, một số thậm chí còn dính những thứ không thể bẩn hơn.

Một báo cáo trong năm 2002 do tạp chí Y học miền Nam phát hành tìm thấy các mầm bệnh - bao gồm cả vi trùng tụ huyết cầu - trên 94% tờ tiền được thử nghiệm. Một số tờ tiền khác thậm chí còn dính cả phân.

Các nhà khoa học cũng kết luận tiền giấy mang nhiều mầm bệnh còn hơn cả nhà vệ sinh gia đình. Đối với các bề mặt khác, vi khuẩn chỉ sống được khoảng 48 giờ, nhưng riêng tiền giấy vi khuẩn có thể sống bám tới 17 ngày.

9. Đồng tiền mệnh giá khủng khiếp nhất
 


Để đối phó với lạm phát phi mã lên tới mức lố bịch 231%, khiến 1 ổ bánh mỳ có giá tới 300 tỷ đôla Zimbabwe (ZWD), chính phủ Zimbabwe đã cho phát hành tờ tiền 100 nghìn tỷ ZWD. Đây cũng là đồng tiền mệnh giá lớn nhất từng được phát hành.

Tuy nhiên, chỉ 1 tuần sau đó, tờ tiền này nhanh chóng không trụ nổi trước cơn bão mất giá khiến chính quyền Zimbabwe bắt buộc phải cho phép người dân dùng các đồng tiền khác trong kinh doanh.

10. Tiền giấy đầu tiên



Tiền giấy đầu tiên được phát hành ở Trung Quốc, và người Trung Quốc bắt đầu mang tiền giấy trong người từ thời nhà Đường (năm 618-907 sau Công Nguyên). Loại tiền này chủ yếu dưới dạng các hóa đơn tín dụng hoặc thương phiếu tư nhân. Người Trung Quốc sử dụng nó trong suốt 500 năm trước khi tiền giấy bắt đầu xuất hiện ở châu Âu trong thế kỷ 17.

Trong khi phải mất thêm gần 2 thế kỷ nữa để tiền giấy lan rộng sang phần còn lại của thế giới, Trung Quốc phải trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính khá lớn, đó là tiền giấy bị mất giá trị, khiến lạm phát tăng vọt.

Năm 1455, Trung Quốc buộc phải bỏ hoàn toàn tiền giấy và không sử dụng chúng trong hàng thế tiếp theo. Có một sự thật đáng ngạc nhiên khác ở Trung Quốc là từ "tiền mặt" thường được dùng để mô tả loại tiền xu có lỗ vuông ở đời nhà Đường.
 

Thơ Thu Hà : XUÂN ĐI ,CUỐI THÔN


 ❤
XUÂN ĐI

Xuân đã đi rồi theo nắng đông
Trời xuân đã nhạt mắt môi hồng
Hoa xuân rơi rụng khung trời rộng
Xuân đã đi rồi ai biết không???
Xuân đã đi rồi ai biết không
Nắng xuân rời rã rớt bên song
Ta nghe nỗi nhớ hồn luôn vọng
Cuối tận chân trời...mong ngóng trông!!!


❤❤CUỐI THÔN...

Sáng về sương ướt đôi vai
Chợt nghe nỗi nhớ quắt quay qua hồn
Thoảng trông nhìn bóng hoàng hôn
Nắng buông phủ xuống cuối thôn...ân tình
Bây giờ mình chỉ một mình
Nhìn xem nỗi nhớ mang tình đi xa
Mùa xuân gợi lại trong ta
Khúc ca ngày cũ đậm đà tiếng yêu!!!

Đặng Thu Hà


Thế giới hậu đại dịch: Đô thị sẽ không lụi tàn, nhưng thay đổi

Chúng ta đang đi qua đại dịch lớn nhất trong lịch sử nhân loại, và có vẻ cũng chưa thể định hình được nó sẽ kết thúc thế nào, nhưng gần như chắc chắn, thế giới bình thường trước đại dịch sẽ không bao giờ trở lại nữa. 

Tạp chí Chính sách đối ngoại (Foreign Policy) đã có cuộc trao đổi khá thú vị với nhiều học giả về các khía cạnh khác nhau sau đại dịch, bài viết dưới đây giới thiệu phần về tương lai các đô thị trên thế giới.

Lễ hội hóa trang đã bị hủy tại Venice, Italia tháng 2/2020. Ảnh: Reuters

95% số người nhiễm Covid-19 trên toàn cầu đang sống ở các đô thị, và có vẻ như điều này sẽ khiến người ta cân nhắc lại về làn sóng đô thị hoá trong hơn một thế kỷ qua.

Đô thị hoá ngược 

Cho dù bệnh dịch hạch đã tàn phá các thành phố châu Âu suốt thời Trung cổ và các thành phố châu Á đến đầu thế kỷ 20, dịch cúm Tây Ban Nha đã giết chết hơn 50 triệu người hồi năm 1918, nhưng các đô thị lớn vẫn trỗi dậy sau đó. GS Richard Floria ở ĐH Toronto cho rằng, đô thị rồi sẽ lại trỗi dậy sau đại dịch, vì cơ hội việc làm nhiều hơn và thu nhập tốt hơn, có những dự đoán rằng các đô thị sẽ lụi tàn sau những cú sốc này, nhưng sức sống của các đô thị luôn mạnh mẽ hơn bệnh dịch. 

Dù vậy, sẽ có những làn sóng dịch chuyển từ đô thị về ngoại ô, đặc biệt của các gia đình có trẻ em và những người dễ tổn thương, do những sợ hãi về mật độ và giao thông công cộng. “Nhưng có những lực hút khác, thu hút những người trẻ nhiều tham vọng đến các đô thị để tìm kiếm cơ hội cá nhân và nghề nghiệp”. 

Đại dịch đang biến đổi cuộc sống ở các đô thị, nó phá huỷ thương mại, hạn chế quyền tiếp cận không gian công cộng, đe dọa các bệnh viện, gây căng thẳng cho hạ tầng kỹ thuật số, gia tăng thách thức về sức khoẻ tâm thần khi người dân buộc phải ở nhà trong suốt thời gian dài.

Chân tháp Eiffel thưa thớt bóng người vào tháng 3/2020, khi Paris bị phong tỏa do Covid-19. Ảnh: Franceinfo

Chính quyền của các thành phố cũng phải đối mặt với sự thiếu hụt ngân sách trong khi những đòi hỏi chi tiêu tăng cao hơn để đối phó với bệnh dịch. Khi các đô thị đóng cửa trong thời gian dài, việc làm của cư dân cũng sẽ bị đe dọa nghiêm trọng.

Chỉ tính riêng ở Mỹ, có hơn 32 triệu việc làm trong lĩnh vực khách sạn, du lịch, giải trí và bán lẻ, và tất nhiên, hầu hết trong số họ đang gặp rất nhiều khó khăn. GS Edward Glaeser ở ĐH Harvard dẫn một cuộc khảo sát hồi mùa hè, cho thấy 70% các nhà hàng sẽ phải đóng cửa nếu đại dịch kéo dài từ 4 tháng trở lên, và hàng chục triệu công việc trong các đô thị sẽ biến mất.

“Cơ hội duy nhất để ngăn chặn thị trường lao động sụp đổ là đầu tư vào hạ tầng chăm sóc sức khoẻ”, Edward Glaeser khuyến nghị.

Cùng chia sẻ ý tưởng đó, Robert Muggah, người sáng lập Viện Igarape cho rằng các phương tiện vận tải công cộng sẽ chật vật để duy trì lượng hành khách khổng lồ hiện tại nếu không có những điều chỉnh để đáp ứng việc giãn cách xã hội. Ô tô không người lái sẽ trở nên quan trọng.

“Đại dịch đang bộc lộ chất lượng quản trị và quy mô bất bình đẳng trong các thành phố trên toàn cầu, nhưng cũng tạo cơ hội để các nhà quy hoạch đô thị, chính quyền và doanh nhân xây dựng trở lại tốt hơn”, Robert đánh giá.

GS Rebecca Katz từ ĐH Georgetown thì nhận định, mật độ cao ở các đô thị sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn cùng với sự lây truyền liên tục của virus corona, các căn hộ trở nên ngột ngạt cho những người trẻ tuổi vốn đang đổ xô đến các đô thị lớn tìm kiếm cơ hội công việc và học tập.

Tàu điện ngầm ở Paris thời đại dịch. Ảnh: Challenges.fr

Trong khi đó, những người giàu có hơn vốn đã sống xa hoa ở các đô thị, sẽ trốn về ngôi nhà nghỉ ngoại ô. Nhiều người trong số họ sẽ có thể tính toán lại các lựa chọn lâu dài, nhất là khi giải pháp cho công việc như họp trực tuyến trở nên phổ biến. Rebecca cho rằng, có vẻ như sẽ có quy trình đô thị hoá ngược, cho dù rất khó để dự đoán liệu “bình thường mới” sẽ thế nào. 

Thay đổi mô hình kinh tế 

GS Chan Hen Chee ở ĐH Công nghệ và thiết kế Singapore nhắc đến trường hợp của một đô thị thiếu nông thôn như Singapore, khi bị đe dọa cả về chuỗi cung ứng y tế và thực phẩm dễ bị tổn thương, lẫn thách thức với việc đảm bảo sức khoẻ cho lượng lớn lao động nhập cư.

Có tới hơn 1 triệu người trong số 5,7 triệu dân số Singapore là người lao động bán kỹ năng và lao động phổ thông, bao gồm người giúp việc và khoảng 300 nghìn lao động nhập cư đang sống chủ yếu trong các ký túc xá có quy mô lớn. 

Người lao động nhập cư xếp hàng nhận cơm từ một nhóm tình nguyện ở Singapore tháng 4/2020. Ảnh: Reuters

Cộng đồng chật chội này đã trở thành nguồn lây nhiễm lớn trong đại dịch, thúc đẩy nhu cầu thiết kế ký túc xá có tiêu chuẩn tốt hơn để có thể ứng phó với đại dịch. “Và gần như chắc chắn mô hình kinh tế hiện tại phụ thuộc nhiều vào lao động nhập cư và tăng trưởng kinh tế sẽ được xem xét lại, thúc đẩy công nghệ để tăng năng suất, một chủ trương được chính phủ (Singapore) thúc đẩy từ lâu sẽ được đẩy mạnh hơn và cấp thiết hơn để giảm bớt sự phụ thuộc vào nhân lực để tăng năng suất”.

Joel Kotkin, Giám đốc Viện Cải cách và đô thị, ĐH Chapman, cho rằng nhà ở đô thị sẽ rẻ hơn khi thực tế là dịch bệnh đã bùng phát nặng nề hơn ở những đô thị có mật độ cao, sẽ có những khuyến khích làm việc từ xa, phát triển giao thông cá nhân phù hợp, giảm bớt phụ thuộc vào các chuyến tàu điện đông đúc.

Joel nhắc đến việc Manhattan (New York) đã giảm dân số từ 2,5 triệu người vào năm 1920 còn 1,5 triệu vào năm 1970 sau các đại dịch đầu thế kỷ. “Sự phân tán dân cư sẽ lan rộng và làm giảm chi phí nhà ở đô thị, đồng thời các thành phố sẽ an toàn và vệ sinh hơn. Tuy nhiên, thế hệ kế tiếp của các vùng ngoại ô sẽ cần đến các thiết kế phù hợp để giảm thiểu khí thải, cho phép làm việc ở nhà nhiều hơn và quãng đường di chuyển đến chỗ làm việc ngắn hơn”. 

Phạm Quang Vinh 

                    🌹🌹🌹🌹🌹🌹🌹

Xem Thêm :Khẩu trang, sợ hãi và bi hài: NCoV, virus thay đổi văn hóa Pháp

ĐỜI NGƯỜI

 


Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2021

Gần Đó Mà Xa - Thơ Thuyên Huy

 

Gần Đó Mà Xa

 Đường về gần đó mà xa

Mưa len lén khẻ hôn tà áo quen

Chiều đi để phố lên đèn

Cũng xưa dáng nhỏ tóc mềm gầy vai

Lá thu vờn gió thu bay

Ngập ngừng em chậm bước gầy dấu xưa

Cổng hờ hờ khép ngẫn ngơ

Người qua phố muộn đứng chờ một mai

Một mai đường về thôi dài

Cho người gởi chút tình say tới người

 Thuyên Huy

2021

 


 Mời Xem :Người Ở Lại Chiều Ba Mươi - Thơ Thuyên Huy

                 

                Mưa Ở Đó Có Buồn Không Em - Thuyên Huy

Thằng “Nước Mắm”

 

Nó đến Mỹ cùng cha mẹ diện HO. Căn cứ theo tuổi trên giấy tờ, nó được xếp vào lớp tám. Ngày đầu đi học, má nó bới cho hộp cơm trưa, bà không biết nó mới qua thuộc diện con nhà nghèo, được ăn miễn phí.

Cơm trắng và tôm bạc rim nước mắm là món ăn “quí tộc” mà hồi ở Việt Nam nó không mấy khi có dịp được ăn. Những ngày đầu ở Mỹ, nó chỉ thích mỗi món cơm trắng với tôm kho, ăn đến no chứ không bao giờ biết chán.

 Buổi trưa nó cầm hộp cơm theo các bạn đến nhà ăn của trường. Kiếm một chỗ ngồi, nó mở hộp ra, kê mũi vào đó hít một hơi. Đang đói, mùi tôm kho nước mắm và mùi cơm trắng hấp dẫn làm nó chảy nước miếng.

Nó xúc một muổng cơm kèm với con tôm, sắp sửa đưa lên miệng thì nghe tiếng đứa ngồi kề bên nói lớn: – Ê, mùi gì mà “stink,” thúi quá vậy tụi bay?

Nó xoay qua thấy cái thằng đen thui cùng lớp một tay bịt mũi, tay kia quạt lia lịa. Một thằng, có lẽ là dân Á châu, chạy lại nhìn vào hộp cơm của nó, mũi khịt khịt:

– À, đồ ăn của thằng này, có mùi “fish sauce,” nước mắm, chứ chi mà ồn thế!

Thằng bên cạnh nó bèn la lên, mặt nhăn nhó:

– “Yuck!” Nước mắm! Gớm quá đi!

Image result for com tom kho tau

Nó ngẹn ngào, muổng cơm chưa kịp đưa vào miệng đã phải bỏ xuống. Nó lật đật đem hộp cơm đổ ập vào thùng rác rồi lầm lũi bước đi. Đàng sau tiếng thằng da màu la lớn:

– The “Fish Sause!” A ha! Thằng “Nước Mắm!” và bọn nhóc cười vang phụ họa.

Về nhà nó không dám nói lại, sợ má nó buồn. Nó thương má lắm. Những ngày ba nó đi tù, nhà nó bị đưa đi kinh tế mới. Bà Nội tuổi già sức yếu không chịu được nước độc rừng thiêng nên bịnh hoạn triền miên.

Má nó vất vả làm rẫy để nuôi nó và bà Nội, vừa thăm nuôi ba. Nhưng rồi bà Nội mất mà không kịp nhìn mặt ba nó, người con độc nhất của bà. Một tay má nó lo việc tang ma cho bà Nội. Nhà không có tiền nên nó chưa bao giờ ăn được miếng cá miếng thịt cho ngon, ngoài mấy mớ cá “giã cào” kho quẹt với rau lang hoặc cải làng mọc dại.

Lâu lâu khi bán bớt mớ bắp mớ khoai, má nó nhín tiền mua vài con tôm bạc về kho, đó là thực đơn “vương giả” nhất trong quãng đời ấu thơ của nó. Vậy mà hôm nay nó đành lòng vất vào thùng rác cái món ăn “cực phẩm” ấy.

Một tuần học đã trôi qua. Giờ ra chơi nó ngồi dưới gốc cây nhìn tụi trẻ nô đùa. Nó chưa có bạn, một phần vì tiếng Anh giới hạn – dù nó đã học được hơn hai năm tiếng Anh và thuộc rất nhiều từ vựng ba nó dạy – một phần vì mặc cảm bị chế nhạo bỡi cái món nước mắm kho tôm, nên giờ “break time” nó thường ngồi một mình.

Chợt nghe tiếng “bình bịch” đàng sau, nó quay lại thấy một thằng bự con đang rê banh ào ào về phía sân bóng rổ. Quần jean kéo lê dưới đất, bụi bay mù mịt quanh chân, chiếc áo thun màu xám rộng thùng thình “treo” tòng teng không che được hai cái đầu gối “lọ nồi” nhô ra từ hai chỗ rách.

Mái tóc hắn xoăn tít, lởm chởm dưới cái mũ Lynynd Skynyrd đội ngược. Nó nhận ra đó là thằng Jack cùng lớp, cái thằng đã chế nhạo nó hôm nào.

Theo lời thằng Bob và thằng Andrew, Jack chơi bóng rổ rất “cừ,” hắn ném cú nào là vào cú nấy. Jack ở trong đội bóng rổ của trường, thầy cô nói hắn rất có tương lai nên hắn lên mặt “ta đây” lắm. Bạn bè nể phục những cú ném bóng “thần sầu” của hắn, đặt cho cái nick name “Hooper Cooper” và hắn rất tự hào về cái biệt hiệu đó.

Nhồi banh đến cái mức trong sân, Jack dạng chân, hai tay nâng banh ngang trán. Mắt nhìn thẳng lên cái rổ, hắn cong cùi chỏ bên phải, nhún đầu gối xuống rồi bất thình lình phóng lên cùng lúc thả lỏng trái banh, tay phải đẩy mạnh một phát thẳng cánh. Trái banh lao chính xác lên trên miệng rổ, đứng sựng lại, rồi lọt tỏm vào cái vòng, rơi xuống đất.

– “Whoa!” Tuyệt thật! Hooper Cooper! Bob và Andrew chạy lại vỗ tay la ầm ĩ.

Thằng Jack nở mũi ném mấy trái liên tục, trái nào cũng vào rổ đẹp hết biết. Bọn trẻ hò hét, kéo lại thật đông. Nó ngồi xem mà thấy khâm phục thằng Jack vô cùng. Nó cũng mê chơi banh lắm nên định khi nào thằng Jack bớt ác cảm với nó, nó sẽ xin hắn tập chơi.

Tiếng Anh nó chưa giỏi, nhưng toán thì “khỏi chê!” Nó giải được hết những bài tập thầy cho. Có nhiều bài nó giải xong, thầy nói nó giải ngắn hơn cách của ông vài bước. Một hôm, ông thầy bỗng nhiên giao cho nó một nhiệm vụ. Khổ nỗi, cái nhiệm vụ đó lại làm cho thằng Jack nổi khùng. Thế là chẳng những cái mộng học chơi bóng rổ của nó tiêu tùng, nó còn bị thằng Jack lôi vào “vòng ân oán.”

Hôm đó đến giờ toán. Ông thầy gọi nó:

– Hiệp! Tất cả bài tập em đã làm xong. Bây giờ em hãy đi vòng vòng giúp cho các bạn, nhất là Jack, hãy đến giúp bạn ấy!

Cực chẳng đã, nó bước lại chỗ Jack và nói, giọng tiếng Anh nặng trịch âm Việt:

– “Yu nít hép?” Bạn cần giúp không?

– “Nah!” Hắn gầm gừ và ném cho nó một cái nhìn giận dữ.

Nó quay lại bàn giúp cho Bob, Andrew, và các bạn chung quanh. Với toán không cần nói nhiều tiếng Anh nên nó giúp không mấy khó. Cuối cùng tụi bạn nhìn nó rạng rỡ biết ơn. Kể từ hôm đó, nó trở thành “tutor” của lớp toán.

Nhưng không phải với Jack. Hắn chả cần sự giúp đỡ của nó. Hắn ngồi gạch gạch, xóa xóa đến hết giờ cũng chỉ xong được có mấy bài. Khi Bob và Andrew chạy lại rủ đi ra ngoài, hắn điên tiết quẳng cây bút xuống:

– “Damn it!” Đồ khốn kiếp! Phân số với lại phương trình! Chả như bóng rổ, ném một phát là xong ngay!

Thằng Bob cười hì hì:

– Kêu thằng Hiệp nó giúp cho, mày sẽ làm nhanh lắm! Nó đã giúp tụi tao hiểu được nhiều phép giải rất “thần kỳ.”

– Mày câm đi! Tao, một “Hooper Cooper,” mà để cái thằng khù khờ nói tiếng Anh ngọng nghịu đó làm thầy hả? “No way!”

Ra ngoài, gặp nó ở một khúc quanh, Jack thộp cổ áo nó và dứ dứ cái nắm đấm:

– Ê! “Nước Mắm!” Bày đặc làm giỏi hả? Đừng bao giờ làm cho tao cảm thấy ngu ngốc trước mặt mọi người nghe! Liệu hồn đấy!

– Tôi…tôi…Nó xanh mặt, nhìn quanh cầu cứu. May mà thằng Jack bỏ đi.

Ba nó ngày xưa từng làm việc với cố vấn Mỹ nên tiếng Anh cũng tạm “đủ xài.” Ông xin làm ở một trạm xăng, má nó đi phụ bếp nhà hàng. Nhưng bán xăng được một thời gian thì bị cướp nên ông sợ quá xin nghỉ việc và đi bỏ báo. Tuy phải chạy đôn chạy đáo với việc làm nhưng ba má nó lúc nào cũng dành thời gian dạy dỗ nó.

Tối nào ba nó cũng xem bài vở, nhắc nhở nó làm bài tập và rèn luyện tiếng Anh. Nó kể ba má nghe những chuyện ở trường, như là thư viện có nhiều sách đọc đã luôn và ông thầy kêu nó kèm toán cho các bạn. Nhưng nó không dám kể chuyện bị thằng Jack bắt nạt và cái tên “Nước Mắm.”

Lên lớp chín, lớp nó có hai thằng “nhất” được thầy cô và bạn bè nể mặt. Nó học giỏi nhất, thằng Jack ném bóng rổ giỏi nhất. “Một rừng không thể có hai cọp,” thằng Jack nổi điên mỗi khi nó được thầy cô khen. Hắn bẹo má nó:

– Hey, “Con tôm!” Cái đầu mày bé tẹo thế này, chỗ đâu mày chứa nhiều con số thế?”

Nó đã chịu đựng thằng Jack một năm rồi. Nhưng nó học càng giỏi thì hắn ngày càng làm tới, khi véo mũi, lúc kéo tai, hoặc ca bài “Nước Mắm” để chọc cười cho bọn nhãi. Dần dà nó cảm thấy sợ hãi mỗi khi đến lớp.

Đi đâu, làm gì nó cũng nơm nớp ngó trước nhìn sau để xem thằng Jack ở đâu mà tránh. Nó luôn bị ám ảnh bỡi cái mặt đen sì và cái nắm đấm của hắn. Trong cơn mệt mỏi, tuyệt vọng, nó muốn nghỉ học để đi phụ bỏ báo với ba.

Nhưng rồi có một việc xảy ra với nó. Hôm đó nó ôm trái banh cũ ra chơi một mình. Đang rê banh chạy loanh quanh, thình lình một thằng choai choai mặc đồng phục ở đâu chạy tới tung vào nó. Hai thằng ngã lăn ra đất. Ông Jim hàng xóm lật đật chạy ra:

– Trời ơi! Sao lại thế này? Mấy đứa có bị gì không?

Nó cười, nói không sao và giúp phủi bụi cho thằng nhóc Logan, con ông ấy. Ông thấy nó hiền nên bắt chuyện:

– Chú thấy cháu thường chơi một mình, cháu có muốn đi xem các bạn Hướng Đạo sinh họp đội không? Nếu cháu thích, chú sẽ đến nhà xin ba má đưa cháu đi chơi.

Nhìn thằng Loganmặc đồng phục rất oai, nó mừng quá liền nói cám ơn lia lịa.

Gần tối, ông Jim qua nhà nói chuyện với ba nó. Ông là một “Troop Leader,” trưởng đội Hướng Đạo thành phố. Hai người nói chuyện thật tâm đắc. Họ bàn luận về tiêu chí của Hướng Đạo, là phụ giúp gia đình và học đường rèn luyện cho thanh thiếu niên được mạnh mẽ, cường tráng từ tinh thần đến thể chất, có trách nhiệm, biết trọng danh dự, và biết thích nghi với mọi hoàn cảnh để thành công dân hữu ích cho đời. Đặc biệt, giúp đào tạo bọn trẻ trở thành những lãnh đạo giỏi trong tương lai.

Tối đó ông Jim giới thiệu nó với đội Hướng Đạo và nó được chào đón rất niềm nỡ. Nó khoái quá, bèn xin ba má ghi danh vào đội ông Jim và trở thành một Hướng Đạo sinh ngay tuần sau đó. Ba nó được mời dự lễ tuyên thệ gia nhập đoàn.

Ông vui mừng nhìn nó rạng rỡ trong bộ đồng phục, nâng tay chào và đọc theo lời tuyên thệ “Hoàn thành thật tốt nhiệm vụ đối với Thượng Đế và Quốc gia, chấp hành mọi luật lệ của Hướng Đạo, luôn giúp người, giữ gìn thân thể khỏe mạnh, tâm trí trong sáng, đạo đức, ngay thẳng.”

Từ ngày tham gia Hướng Đạo, nó cảm thấy tự tin, mạnh mẽ, tinh thần rất ổn định. Công tác đầu tiên của nó là theo đội đi volunteer tại một trung tâm homeless. Nhìn cuộc sống của những kẻ không nhà, nó chợt nhận ra là phải nhất quyết học để thành người hữu dụng. Và chẳng biết tự bao giờ, nó không còn cảm thấy run sợ trước thằng Jack nữa.

Nó tốt nghiệp cấp hai, hồi đó là lớp chín, hai năm sau khi đến Mỹ, và được đề cử đọc bài diễn văn. Má nó đã vui đến rơi lệ khi nhìn nó đọc rất hùng hồn và nhiều lần bị ngắt quãng bỡi những tràng vỗ tay nồng nhiệt.

Lên lớp mười, nó tưởng sẽ tránh khỏi cái “nợ đời” Jack. Ngờ đâu “ma dẫn lối quỉ đưa đường,” hắn lại một lần nữa ngồi cùng lớp với nó và thằng Bob. Nhưng hình như từ khi biết nó là một Hướng Đạo sinh, và nó cũng đã cao lớn, thằng Jack bớt “động thủ tay chân,” chỉ thỉnh thoảng phá nó bằng cách gào lên “Thằng Nước Mắm.”

Hè đến, ngoài việc lấy lớp “advance” ở trường college, nó theo đội đi leo núi, cắm trại, tập bơi, gây quĩ giúp người nghèo, hổ trợ US Army, và luyện kỹ năng sống trong hoang dã. Hoạt động nhiều, nó “ăn như hổ, ngủ như heo”và nó lớn nhanh như thổi.

Ngày xưa, mỗi lần nó đem “report card” về khoe thì ba cõng nó chạy một vòng. Bây giờ, mỗi lần nó đem “report straight A” về, nó ẵm ba nó xoay một vòng, vì nó không nỡ để cái lưng còng của ba phải khòm thêm vì nó! Nó đã cao hơn ba rồi còn gì!

Thằng Jack vẫn gầm gừ với nó như “trâu trắng với trâu đen.” Nhưng lên cấp ba bận rộn và thi đấu thường xuyên, hắn ít có thời gian để quậy nó. Ngày kia, thằng Jack ném trật trái banh ra lề cỏ. Hắn bị quê với đám bạn nên vội phóng theo. Bất ngờ ống quần Jean của hắn móc vào cái trụ nước tưới làm hắn té nhào. Hắn đứng dậy nhưng lại ngã tiếp.

– Oh God…Trời ơi, tao bị gãy chân rồi! Hắn lăn lộn dưới đất la oai oái.

Mấy đứa con gái lật đật gọi 911.

Nó bước lại xem. Bàn chân phải của thằng Jack sưng vù nơi mắt cá, nó biết là hắn đã bị trẹo gân. Hồi còn ở Việt Nam, bác của nó làm nghề sửa trặc có chỉ nó cách “nắn gân” và nó thường dùng mỗi khi bạn nó đá banh bị trặc. Thấy thằng Jack rên la đau đớn, nó tội nghiệp và cái tâm Hướng Đạo “luôn giúp người” trổi dậy, nó ngồi xuống:

– Để tao xem thử.

Thằng Jack đang nhắm tít mắt kêu gào nên không biết là ai đã nói.

Nó cầm lấy bàn chân của hắn, xoa xoa nắn nắn, rồi bất thình lình giật mạnh.

– Úi da…Chết tao rồi! Thằng Jack rống lên. Mở mắt ra nhìn thấy nó, hắn thét lớn: – “Son of a bitch!” Thằng khốn kiếp! Mày muốn giết tao hả? Rồi hắn dùng bàn chân kia đạp vào mặt nó. Nó bật ngửa, choáng váng mặt mày, máu mũi tuông ra.

Khi xe cứu thương đến, thằng Jack đứng dậy đi tỉnh bơ. Nó thì bị đưa vào nhà thương may hai đường bên dưới mũi. Thằng Jack nói nó bẻ chân hắn để trả thù. Người lớn cũng có vẻ tin thế khi bọn trẻ khai “hai đứa không thích nhau từ lâu.” Vậy là từ ân nhân nó trở thành phạm nhân!

Nó ức lắm, nhưng không thèm giải thích. Nhà trường vì nể tình hai đứa trò “đặc biệt” nên chỉ ra hình phạt “cấm đứa nọ lại gần đứa kia.” Sau này nó kể Bob nghe về cái nghề “sửa trặc” và bị hắn chửi, sao hồi đó không chịu nói ra. Bob có nói lại với thằng Jack, nhưng vì lúc ấy sắp tốt nghiệp nên mọi việc rồi cũng trôi qua.

Sau việc này, ba má nó la cho một trận. Sống ở Mỹ khi gặp chuyện, muốn giúp người thì gọi 911, không được đụng đến nạn nhân mà “ách giữa đàng mang vào cổ.” Nhưng việc ấy lại hóa hay cho nó! Không còn phải lo thằng Jack, nó lo “gặt” thành tích học tập ở trường và “hái” huy chương (merit badges) ở Troop Hướng Đạo, quyết chí lấy cho được cái đẳng cấp cao quí “Hướng Đạo Đại Bàng.” Nó luôn học “straight A” và lập rất nhiều thành tích khác. Tên nó được list trong Who’s Who book hàng năm.

Khi nộp đơn lên đại học, thành tích tốt của nó gồm một cái list thật dài. Đầu tháng Năm năm cuối lớp 12, nó được giấy báo cả bốn trường đại học nó nộp đơn đều nhận. Nó nhảy cẩn lên vì cái giấy báo của đại học Stanford.

Nó cũng hoàn tất đủ 21 “badges,” chuyên hiệu yêu cầu cho cấp “Hướng Đạo Đại Bàng” trước khi nó18 tuổi. Trong buổi lễ trọng thể gắn huy chương “Eagle Scout Award,” ba má nó được hai Hướng Đạo sinh danh dự “hộ tống” lên khán đài.

Họ cũng được vinh danh, và nhận chứng chỉ “Eagle Scout” cho nó cùng lá thư tuyên dương từ ông “Chief Scout Executive”của Hướng Đạo Hoa Kỳ.

Nó xếp hạng thủ khoa toàn khối 12 và được phát thưởng đặc biệt cùng với chín bạn khác, một ngày trước lễ tốt nghiệp High School. Nhà trường tuyên dương nó về thành tích học tập, tham gia nhiều hoạt động, volunteer, và đặc biệt, họ rất hãnh diện vì nó được nhận vào đại học danh tiếng Stanford. Má nó lại khóc khi nó đọc bài diễn văn tốt nghiệp.

Ngày nó tốt nghiệp Cử nhân cũng là ngày nó nhận việc tại một hãng computer. Ban ngày đi làm, ban đêm học tiếp, và nó tốt nghiệp Master cùng lúc vị hôn thê của nó vừa xong Dược sĩ. Vậy là “Tam hỉ lâm môn,” đại-tiểu-đăng-khoa nhập chung một cuộc.

Nó đám cưới với cô Dược sĩ “khác họ cùng làng” rồi mua một ngôi nhà thật khang trang, có hồ bơi và vườn cây ăn trái, ở gần San Jose. Nó bàn với vợ, trở lại vừa học vừa làm để lấy bằng Tiến sĩ trong khi chờ đợi “thằng cu Tý” chào đời.

Tình cờ nó gặp lại Bob tại cuộc diễn hành “Holiday Parade” ở down town San Jose. Là fan hâm mộ, vợ nó muốn đi xem cho tận mặt ngôi sao ca nhạc kiêm nhạc sĩ tuổi “teen” Celeste Kellogg.

Mãi lo chen lấn, nó lạc cô vợ, và giật nẩy mình khi Bob chụp lấy nó. Hai đứa mừng rỡ trò chuyện râm rang, quên luôn “super star” Celeste Kellogg đang trình bày bài “Handcuffed To Your Heart” cô mới vừa sáng tác. Bob kể đã tốt nghiệp kỹ sư điện tử, đi làm, và hiện sống gần đó. Tâm sự một hồi, đột nhiên Bob hỏi:

– Mày còn nhớ thằng Jack “Hooper Cooper” không?

– Trong mũi tao vẫn còn cái sẹo, làm sao quên được!

– Ừ, hồi đó nó quá đáng thật! Nhưng bây giờ nó tội nghiệp lắm! Lò mò nó cũng xong được Computer soflware Engineer. Nó làm cho hãng X. từ đó đến giờ, có vợ có con, rồi mua nhà ở gần nhà tao.

Nhưng hãng của nó vừa mới bị phá sản. Giờ thì vợ bịnh con đau, tiền nhà khất mãi, điệu này vài bữa nữa nhà băng sẽ kéo thôi! Nó đang lên cơn điên, chạy kiếm job tứ tung. Nó nói chắc có ngày nó phải đi “cướp nhà băng” quá!

Thằng “Hooper Cooper,” cái biệt danh“Nước Mắm,” những tháng ngày bị bắt nạt, và cú đạp như trời giáng từ cái bàn chân đen thùi của hắn. Nó quên sao được mà quên!

Cuối tuần nghỉ sớm, nó lái xe rời hãng. Dừng lại chỗ bảng Stop trước cổng, nó bỗng cảm thấy hơi buồn vì cây thông già không còn lấp lánh ánh đèn Christmas. Người ta đã gỡ hết sau Tết Tây, mấy tuần rồi mà nó vẫn còn thấy nhớ.

Ai cũng nói cây thông này là biểu tượng của công ty. Đúng vậy. Cây cao chọc trời, đứng ngạo nghễ giữa nắng lửa mưa dầu và luôn vươn lên xanh tốt. Cũng như cái hãng này. Dù nền kinh tế toàn cầu chao đảo ngã nghiêng, hãng vẫn tồn tại vươn lên cùng các chi nhánh khắp thế giới. Đó là nhờ công sức của mọi người, ai nấy đều cống hiến hết mình cho sự sống còn của hãng. Và họ đã được đền bù xứng đáng.

Tháng trước, ông boss đã nói “You deserve it” khi trao cho nó cái “Certificate” và tờ check “Bonus” mà nếu ai nhìn thấy cũng phải “phát ghen.” Nó được chọn là một trong mười manager giỏi nhất năm, từ tất cả các chi nhánh trên toàn thế giới.

Ra khỏi xa lộ 101, nó quẹo vào Tully. Chỉ vài ngày nữa là đến Tết Nguyên Đán của người Việt nên khu LionPlazarất nhộn nhịp, tấp nập kẻ ra người vào. Hàng Tết, hoa quả, bánh mức đủ sắc đủ màu chưng bày tràn ra tận cửa. Nó đến tiệm giò chả Đức Hương để mua bánh tét bánh chưng đem về cho cha mẹ hai bên ăn Tết.

Má nó thường nói “bánh chưng bánh tét là những thứ không thể thiếu trên bàn thờ ngày xuân,” nên nó ghé mua trước kẻo cận ngày sẽ hết. Cầm giỏ bánh còn nóng hổi trên tay, nó chạnh lòng nhớ lại cái Tết ngày xưa ở vùng kinh tế mới.

Cuối tháng Chạp năm đó nó theo bọn trẻ trong làng, lên rừng chặt một khúc củi to cho má nấu bánh chưng, vác về giữa đường gặp một con trăng to rằn ri trông rất khiếp, nó hốt hoảng quăng luôn khúc củi, chạy thục mạng về tay không.

Ngang qua khu hội chợ của cộng đồng Việt, “Tet Festival,” đèn màu rực rỡ cùng tiếng náo nhiệt vọng ra làm nó thấy lòng vui khôn tả. Nó sẽ đưa cả gia đình đi xem hội chợ.

Ai cũng nói đến Bắc Cali vào dịp Tết mà không đi xem hội chợ thì thật “uổng một đời,” vì chợ Tết San Jose đổi mới hàng năm với những màn múa lân múa rồng độc đáo, nào thi Hoa Hậu, trình diễn Thời Trang, rồi thì Paris By Night, lúc lại Trung Tâm Asia ca nhạc.

Lên đến down town, vợ nó bỗng gọi nói thèm ăn Big Mac. “Bà bầu” có khác, thèm là phải được ăn ngay, nếu không sau này “thằng cu sẽ chảy nước dãi,” má nó nói vậy.

Nó tấp vào McDonald, order một cái Big Mac rồi ngồi chờ. Chợt có tiếng sột soạt ở bàn bên, nó nhìn sang thấy một gã dáng vẻ thiểu não, miệng ngậm cái ống hút, hút xoèn xoẹt vào cái ly đã cạn, mắt chăm chú nhìn tờ báo trước mặt, tay liên tục khoanh tròn.

Thấy gã có vẻ quen quen, nó nhìn kỹ, nhận ra đó là thằng Jack. Nó đứng dậy, liếc thấy những chỗ khoanh tròn: Cần người dọn dẹp, làm vườn, phụ bếp…

– Hey Jack! Khỏe không?

Gã giật mình, ngước lên:

– Xin lỗi…you là…

– Thằng… “Nước Mắm”!

Jack trố mắt nhìn nó chằm chằm. Nó không còn là thằng “Nước Mắm” cà tong, rạm nắng ngày nào. Nó cao lớn, trắng trẻo, mặc com lê, xách cặp, dáng oai vệ lãnh đạo.

Nhớ lại chuyện cũ, gã ấp úng:

– Tao…tao…thật xin lỗi…hồi đó…- Chuyện xưa rồi, bỏ đi! Nó nói, rút tấm danh thiếp trong túi đưa cho gã: – Mày đang tìm việc phải không? Lên trang web này, lấy hồ sơ xin việc điền vào, rồi mang resume đến gặp tao, tao sẽ nộp giúp! Nói xong, nó lại lấy cái Big Mac và bước ra xe.

Jack sững sờ dõi mắt theo chiếc Lexus vừa rời khỏi parking, rồi quay lại nhìn đăm đăm vào hàng chữ trên tấm danh thiếp:

“Hiep Le– Senior Engineering Manager”

Nhìn một hồi, gã bất chợt cười toe, rồi đưa tấm danh thiếp lên môi hôn một phát, nước mắt lấp lánh trên đôi gò má đen bóng, gã hét lớn:

– “God bless you!” Thằng “Nước Mắm!”

Phương Hoa


Từ Cảnh chuyển 

💝💝💝💝💝💝 

 Luôn có một "Cái Hậu Đep ' cho Những Người Có Tâm Chí và Cố Gắng 

GIÁNG SINH NGUYỆN CẦU - Thơ Duy Anh Và Bài Họa Của Các Thi Hửu

GIÁNG-SINH NGUYỆN CẦU Giáng-Sinh nguyện trước quảng trường nầy Rực rỡ cây Thông đèn đóm đầy. Tiếng vọng tình thương vơi ác chiến Lời truyền ...