Góc Việt Cổ Thi - Thơ Xuân
Mailoc sưu tầm và phỏng dịch
1. Mộ Xuân Tức Sự
Nguyên tác: Nguyễn Trãi
2. Xuân Dạ - Nguyễn Du暮 春 即 事
阮 廌
閑 中 盡 日 閉 書 齋,
門 外 全 無 俗 客 來。
杜 宇 聲 中 春 向 老,
一 庭 疏 雨 楝 花 開。
Mộ Xuân Tức Sự
Nguyễn Trãi
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai.--Bản Dịch Của MaiLộc:
Suốt ngày nhàn hạ khép thư phòngVắng lặng cửa ngoài khách tục không .Khắc khoải quyên sầu xuân sắp hếtĐầy sân xoan nở giữa mưa phùn.
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm
Nam Đài[1] thôn ngoại Long giang[2] thủy
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).
Dịch nghĩa
Trời tối đen, tìm đâu thấy cảnh xuân tươi sáng?
Qua khuôn cửa sổ nhỏ, chỉ thấy bóng liễu âm u.
Trong bước giang hồ, lại phải nằm bệnh lâu ngày,
Cuộc đời có khác gì vẻ xuân theo mưa gió chìm trong bóng đêm.
Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới bóng đèn mà rơi lệ.
Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng.
Ở đó, phía ngoài thôn Nam Đài, tiếng sóng lòng sông Long Giang
Vẫn lạnh lùng tiễn đưa kim cổ.
Lược dịch1:
Đêm Xuân
Đêm mãi đen hoài nắng đẹp đâu?
Ngoài song bóng liễu phủ lên nhau
Giang hồ thân bệnh hoài vương vấn
Mưa gió đêm xuân cứ dãi dầu
Lưu lạc bao năm đèn nhỏ lệ
Quê nhà ngàn dặm ánh trăng thâu
Nam Đài ơi với sông Lam đó!
Sóng lạnh muôn đời tiếng lắng sâu
--Bản Dịch của MaiLộc:
Đêm Xuân
Đêm tối tăm tìm đâu xuân sắc
Liễu âm u im phắt ngoài song .Giang hồ bệnh hoạn khiếp lòngXuân về mưa gió mịt mùng đêm sâu .Khách bên đèn lệ sầu năm thángQuê dặm ngàn lai láng nguyệt trông .Nam Đài Long Thủy một dòngCổ kim sóng tiễn lạnh lùng mãi trôi .Mailoc phỏng dịch
Cali 2-18-14
3. XUÂN ÐÁN
Tịch mịch sơn gia trấn nhật hàn
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê thảo sắc thiên như tuý
Hồng thấp hoa sao lộ vị can
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan
Bách huân bán lảnh trà yên yết
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn
Chu Văn An
SỚM MAI ĐẦU XUÂN
Ngày nhàn hạ trên non lều vắng ,Cửa trúc phên nghiêng chắn gió hàn .Trời trong cỏ biếc ngút ngàn ,Hồng dầm sương sớm chưa tan lệ tràn .Thân tựa mây núi ngàn lưu luyến ,Sóng lòng như giếng cổ lặng căm .Hương phai trà nguội khói tan ,Chim kêu trong suối mộng tàn giấc Xuân .
Mailoc phỏng dịch
4. Xuân Dạ Dã Tự-
Nguyễn Trung Ngạn
Phảng phất tăng gia trụ cách khê.Hòa yên phương thảo lục thê thê
Mang lý bất tri xuân kỉ hứa,
Mãn đình long nhị hiểu oanh đề.
Chùa Quê Đêm XuânCỏ biếc lê thê khói nhạt nhòaCách suối am thiền thấp thoáng xa .Bận rộn nào hay Xuân lại lạiSân chùa hoa nhãn tiếng oanh ca .Mailoc
5. Xuân Vãn
陳 仁 宗 Trần Nhân Tông
年 少 何 曾 了 色 空 Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
一 春 心 在 百 花 中 Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
如 今 勘 破 東 皇 面 Như kim khám phá đông hoàng diện,
禪 板 蒲 團 看 墜 紅 Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.
Dịch Nghĩa: Chiều Xuân
Lúc nhỏ chưa hề biết thế nào là Sắc với Không
Nên mỗi khi xuân về, khiến lòng xao động gởi vào trong trăm hoa .
Ngày nay đã hiểu rõ được bộ mặt của chúa xuân,
Khi ngồi trên tấm thảm cỏ nơi thiền phòng, tâm vẫn lặng khi thấy cánh hoa rụng.
CHIỀU XUÂN
Sắc không lúc trẻ chẳng tinh tường ,Xuân đến hoa cười dạ vấn vương .Mặt thật chúa xuân nay khám phá ,An nhiên tịnh tọa mặc rơi hường .MailocSắc không niên thiếu chưa rành lắm ,Rộn rã xuân xanh cánh hoa lòng .Chúa xuân mặt thật giờ thông ,An nhiên tịnh tọa nhìn hồng rụng rơi !Mailoc
6. XUÂN GIAO VÃN HÀNH
( Nguyễn tử Thành )
Pha đầu trú mã tịch dương đình
Toàn chước thanh tuyền tẩy phá quynh .
Xuân diểm trang hoa hồng giáp ất
Sơn liên dã thụ lục tung hoành .
Thi tòng thắng cảnh ngâm biên hứng,
Nguyệt đậu sơ vân khuyết xứ minh .
Cách ốc tạm đồng tăng xá túc
Nhất câu đăng hỏa thoại bình sinh
CHIỀU XUÂN DẠO NGẮM CẢNH ĐỒNG
Tà dương buộc ngựa quán bên ghềnh,
Nước suối trong veo rửa chén quỳnh .
Hoa trại khoe xuân nhoè sắc đỏ
Cây đồng tiếp núi ngợp đồng xanh .
Hồn thơ, cảnh đẹp ngâm thêm hứng,
Ánh nguyệt mây thưa rạng vẻ lành .
Hẻo lánh mái chùa đêm nghỉ tạm
Ðèn khuya thao thức chuyện bình sinh( Khuyết danh )
--Bản dịch của Mailoc:
Chiều Xuân dạo ngắm cảnh đồng
Dừng chân ngựa bên đình chiều tối ,
Rửa chén quỳnh bên suối nước trong .
Thôn trang xuân điểm sắc hồng
Cỏ cây liền núi cánh đồng xanh lơ .
Cảnh như tranh hồn thơ thêm hứng ,
Ánh trăng ngời lửng thửng mây thưa .
Qua đêm hẻo lánh mái chùa ,Bình sinh chuyện kể say sưa bên đèn.Mailoc phỏng dịch
7. Xuân Nhật Hữu Cảm kỳ 1Trần Quang KhảiVũ bạch phì mai tế nhược ti ,
Bế môn ngột ngột toạ thư si.
Nhị phần xuân sắc nhàn sai quá,
Ngũ thập suy ông dĩ tự tri.
Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện,
Ân ba hải khoát túng lân trì.
Bình sinh đảm khí luân khuân tại,Tuý đảo đông phong phú nhất thi.Dịch Nghiã :
Mưa muốm làm tươi tốt cây mai nên gội ướt cành tơ
Đóng cưả ngồi sừng sửng một con người nghiện sách
Nửa phần sắc xuân đã hờ hửng trôi đi
Năm mươi tuổi tự biết mình suy yếu
Tấm lòng cố hương mỏi mệt theo cánh chim bay
Ơn vua như biển rộng , nên còn chần chờ như con cá giương vây
Riêng chí dũng cảm lúc bình sinh vẫn còn nguyên đó
Say ngả nghiêng trước gió đông , ngâm một bài thơ .
Cảm Xúc Ngày Xuân ( I )
Mai tắm dưới mưa phùn mờ ảo
Khép phòng thư đau đáu lặng ngồi
Nửa đời xuân sắc trôi trôi ,
Năm mươi tuổi đã lần hồi yếu ra .
Cố hương xa chim đà mỏi cánh ,
Ân biển trời khiến cá giương vây .
Bình sinh hào khí còn đây ,
Đề thơ trong gió say say xuân về .
Mailoc phỏng dịch
Xuân Nhật Hữu Cảm kỳ 2
Nguyệt sắc vi vi dạ hướng lan,
Đông phong đặc địa khởi xuân hàn.
Phiên không liễu nhứ niêm cao các,
Giác mộng Tương quân phác hoạ lan.
Bị vật nhuận tòng thiên ngoại vũ,
Kinh tâm hồng thoái tích thì nhan.
Khứ sầu lại hữu tam bôi tửu,
Phủ kiếm du du ức cố san.Dịch Nghiã :
Bóng trăng mờ mờ , đêm đã gần tàn
Gió đông đột ngột khơi dậy cái rét mùa xuân
Bay múa trên không, tơ liễu dính vào gác cao
Tỉnh mộng, cành trúc đập vào lan can chạm vẽ
Cảnh vật thêm tươi nhờ trận mưa ngoài trời
Lòng kinh sợ sắc mặt hồng hào thời xưa đã phai
Tiêu sầu nhờ có có vài chén rượu
Vỗ kiếm, vời vợi nhớ non xưa .
Dịch Thơ :
Cảm Xúc Ngày Xuân ( 2)
Đêm hồ tàn , trăng mờ hiu hắt ,
Gió đông về lạnh ngắt hơi Xuân .
Lầu cao liễu múa rộn ràng ,
Cành tre khuấy mộng lan man ngoài thềm .
Mưa gội sạch cảnh thêm tươi mát ,
Bỗng giật mình đâu nét thời xuân ?
Tiêu sầu vài chén lâng lâng ,
Vỗ gươm , núi cũ bâng khuâng nhớ về .
Mailoc phỏng dịch
8. Lê Cảnh Tuân , tự là Tử Mưu, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương, đậu Thái Học Sinh đời nhà Hồ. Khi quân Minh sang chiếm nước ta, ông có làm bài Vạn Ngôn Thư khuyên Bùi Bá Kỳ tìm lập con cháu nhà Trần mưu phục quốc, việc bại lộ, quân Minh bắt giải ông về giam ở Kim Lăng. Bị giam lâu ngày ở Tàu, nhân ngày đầu năm, cảm xúc , ông làm bài thơ nầy gởi gắm nỗi niềm nhớ cố hương.
8a. Nguyên Nhật
Lữ quán khách nhưng tại,
Khứ niên xuân phục lai.
Quy kỳ hà nhật thị ?
Lão tận cố hương mai.Lê Cảnh Tuân
Dịch nghĩa
Vẫn làm khách ở nơi quán trọ,
Mùa xuân năm ngoái lại trở về.
Ngày về biết lúc nào,
Những cây mai nơi vườn cũ đã cỗi hết!
Dịch Thơ :
(1) Ngày Đầu Năm
Vò võ bên trời nơi khách quán
Xuân năm rồi lảng đảng ngoài song.
Ngày về ai biết mà mong,
Mai già vườn cũ cõi lòng nát tan.
(2)
Bên trời nơi khách quán,
Xuân năm ngoái lại về
Bao giờ được quay gót,
Xót mai già chốn quê
Mailoc
8b. Giang Trung Phùng Lập Xuân Nhật
(Trên sông gặp ngày lập xuân)
Lê Cảnh Tuân
Hành sắc thương mang tuế chính lan,
Tiêu tiêu phong tuyết biệt ly gian.
Sơn trùng thuỷ phục khách trình viễn,
Đông tận xuân sinh thiên đạo hoàn.
Vạn sự vô tâm tuỳ tiết biến,
Thử sinh nhâm vận cánh thuỳ ban.
Phượng thành thị nguyệt hoa như hải,
Chuẩn nghĩ thiều quang nhất phá nhan.
Dịch nghĩa
Cảnh đi đường mịt mờ, năm cũ đang tàn,
Gió tuyết xào xạc trong khúc biệt ly.
Núi sông trùng điệp, đường khách xa xăm,
Đông qua xuân tới, đạo trời vần xoay.
Muôn việc hững hờ qua, theo thời tiết thay đổi,
Kiếp này phó mặc số phận, nào ai xếp đặt nên.
Tháng hai ở phượng thành, hoa nhiều như biển,
Chắc hẳn ánh xuân sẽ làm tươi nét mặt.
Dịch Thơ:Đường mờ mịt xa xăm năm hết
Giờ chia tay gió tuyết lạnh lùng.
Khách đường sông núi chập chùng,
Hết đông xuân tới mênh mông đạo trời.
Muôn sự việc theo thời biến đổi,
Phó kiếp nầy xin hỏi trời cao.
Tháng hai thành phượng rực màu,
Mặt mày ắt hẳn tươi màu ánh dương .
Mailoc
8c. Mộng Lý Dịch Ngẫu Thành
Đoản trạo các tình sa,
Tiền thôn nhật dĩ tà.
Tự vô hoàn tự hữu,
Yên tế lưỡng tam gia.
Dịch Nghĩa:
Mái chèo ngắn gác lên bãi cát dưới nắng,
Nhìn về xóm trước, mặt trời đã xế chiều.
Cảnh hư ảo như không lại có,
Trong lớp khói mờ có hai ba mái nhà.
Dịch Thơ:
Nơi Trạm Mộng Lý
(1)
Mái chèo ngắn vừa tựa trên cát,
Thôn trước mặt nắng gác non tây.
Nửa hư nửa thực cảnh nầy
Vài ba mái lá khói xây lam chiều.
(2)
Chèo vừa gác trên bãi,
Thôn trước nắng về tây.
Cảnh mơ màng thực ảo,
Mái lá lam chiều xây.
Mailoc
9. Thư Trai Xuân Mộ
( Nguyễn Như Đỗ )
Thành Nam xuân sắc mộ
Mao ốc yểm sài qùynh
Xế bạn đài ngân lục
Đình tiền thảo sắc thanh
Điểu đề hoa tự lạc
Khách chí mộng sơ tinh
Tận nhật nhàn vô sự
Nghiên châu điểm Dịch Kinh
Dịch nghĩa:
Phía nam thành xuân đã muộn
Nhà tranh cửa sài đã đóng kín
Bờ thềm ngấn rêu biếc
Trước sân cỏ màu xanh
Chim hót hoa tự rụng
Khách đến vừa tỉnh mộng
Suốt ngày nhàn rổi không việc gì
Mài son chấm câu trong Kinh Dịch
Dịch Thơ :
Trai Phòng Cuối Xuân
(1)
Thành Nam xuân đã phai
Nhà tranh kín cổng sài.
Biêng biếc bờ rêu phủ
Xanh um cỏ sân ngoài
Hoa rơi chim ríu rít
Khách đến tỉnh mộng say.
Suốt ngày trong nhàn nhã
Kinh Dịch điểm son mài
Mailoc
(2)
Thành Nam xuân muộn nắng phai phai,
Một túp lều tranh kín cổng sài.
Biêng biếc bờ rêu phơi ngõ trước,
Xanh um thảm cỏ trải sân ngoài.
Chim ca ríu rít nhìn hoa rụng,
Khách đến rộn ràng tỉnh mộng say.
Nhàn rỗi suốt ngày không sự việc
Điểm khuyên Kinh Dịch đỏ son mài.
Mailoc
Nguyễn Như Ðỗ 阮 如 堵 (1424-1525) tự Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, người xã Đại Lan, huyện Thanh Đàm (nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì); trú quán tại xã Tử Dương, huyện Thượng Phúc (nay là thôn Tử Dương, xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội). Năm 18 tuổi, đỗ Hội nguyên, Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ, Đệ Nhị Danh (Bảng nhãn) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo, đời Lê Thái Tông (1442). Làm quan đến Lại bộ Thượng Thư kiêm Tế Tửu Quốc Tử Giám, hàm Thiếu Bảo. Ba lần được cử đi sứ (các năm 1443, 1450, 1459). Về trí sĩ. Tác phẩm hiện còn 6 bài thơ được chép trong Toàn Việt Thi Lục của Lê Quý Đôn.
10. Xuân Nhật Tức Sự
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Huyền Quang
Dịch Nghĩa:
Tức Cảnh Ngày Xuân
Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi,
Dưới lùm hoa tử kính đang nở, líu lo tiếng chim oanh vàng.
Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng,
Cùng dồn lại ở một giây phút, đứng kim và im phắc.
Các bản dịch thơ:
Tức Cảnh Ngày Xuân
Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều,
Hoa rợp, oanh vàng lảnh lót kêu.
Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy,
Là khi không nói, chợt dừng thêu.
Huệ Chi
Tức Cảnh Ngày Xuân
Nhẹ tay thêu gấm gái xinh xinh
Hoa rợp chuyền cành ríu rít oanh.
Thương qúa ý xuân thương biết mấy,
Khi dừng đường chỉ bặt âm thanh.
Mailoc
Nhứng bài thơ này rất hay
Trả lờiXóa