Thứ Bảy, 17 tháng 2, 2024

45 năm cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc - Pham Xuân Nguyên

, Cách đây 45 năm trước (17/02/1979), Trung Quốc đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, buộc quân dân ta phải cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước. Đây là một cuộc chiến tranh khốc liệt trước sự tàn bạo dã man của quân Trung Quốc.

Hôm qua (mồng 6 Tết Giáp Thìn) chúng tôi xuất hành từ Hà Nội lên Hà Giang. Tháng 02/1979 Hà Giang (khi ấy còn nhập chung với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên) là một mặt trận ác liệt chống lại quân bành trướng Trung Quốc, mà ác liệt nhất là chiến trường ở huyện Vị Xuyên.

Chúng tôi đã đến hang Dơi, nơi đặt sở chỉ huy mặt trận Vị Xuyên.

Chúng tôi đã đến đền thờ các anh hùng liệt sĩ mặt trận Vị Xuyên xây dựng tại chính cao điểm 468 ác liệt năm xưa, giữa một vùng đồi núi mà trong vòng 10 năm đã phải hứng chịu hơn hai triệu quả đạn pháo từ bên kia biên giới bắn sang và để bám giữ đỉnh 1509 (mà TQ gọi là Lão Sơn) có ngày hơn 600 chiến sĩ của ta đã phải hy sinh, khiến nơi đây được gọi là “lò vôi thế kỷ”.

Chúng tôi đã đến hang Nà Cáy nơi đặt trạm phẫu tiền phương của mặt trận Vị Xuyên (cách cửa khẩu Thanh Thuỷ giao tranh ác liệt 3km) mà bài thơ dưới đây của một cựu chiến binh sư đoàn 313 ngày ấy đã mô tả sự đau thương đau đớn vô cùng. Hang bây giờ đã bị xây tường chắn phía ngoài.

Thắp hương biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc 45 năm trước ở Vị Xuyên chúng tôi biết trang sử bi thương này của đất nước phải được nhớ và ghi.

HANG PHẪU NÀ CÁY, VỊ XUYÊN- MÙA THU… MÁU!

Trần‎ Nam Thái

(CCB F313)

Mấy hôm rồi không một chuyến xe lên

Nà Cáy buồn quay quắt

Xác tử sỹ chất đầy bãi đất

Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi

Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi

Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng

Gió từ dưới sông Lô và đường quốc lộ 2 thốc lên dè dặt

Gió từ đỉnh 812, đỉnh 673 phía trên kia đổ xuống ào ào

Những cơn gió vô tâm, những cơn gió vô tình như cuộn vào nhau

Xộc vào toang hoác xác thân những người lính đã ngã xuống

Xộc vào hoang hoải bần thần tim óc những người lính đang còn sống

Ngách đá kho hậu cần trống rỗng

Gạo mắm đã chia đến từng căn hầm

Khe suối mùa khô chắt nước âm thầm

Quần áo lính giặt xong càng đỏ bầm màu đất

Mảnh đạn dọc ngang chém áo quần rách nát

Suối cũng oằn mình đội pháo giặc suốt ngày đêm

Mấy hôm rồi không thấy xe lên

Cả thung lũng sặc sụa mùi khói đạn

Vách đá trên cao đạn cào trắng toát

Mặt đất dưới sâu đá lật ngổn ngang

Những căn hầm trúng đạn vỡ tan hoang

Những mái nhà âm cháy thành than trơ trụi

Thấp thoáng bóng người lầm lụi

Vác đá, chặt cây, đào đất khoét hầm

Hang phẫu ngổn ngang lính nằm

Những vết thương đỏ máu

Những cuộn băng đỏ máu

Áo Blu quân y đỏ máu

Khắp lòng hang sực lên mùi máu, mùi cồn

Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn

Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước

Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc

Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền

Lại phải cho người chạy bộ xuống Làng Pinh

Lấy tạm vài cơ số thuốc

Bên kia bờ khe nước

Lính vận tải nối nhau lục tục lên đường

Ba lô đạn nhọn đè nặng trên lưng

Đòn tre cáng thương, dài ngoằng chổng ngược

Manh võng cáng thương ướt đẫm từ chuyến trước

Phập phờ rỏ nước thối xuống khắp người

Đường xe lên đất đá tơi bời

Hố pháo mới chồng lên hố pháo cũ

Mảnh đạn ngổn ngang bên cây cỏ xới nhào

Có mảnh lẹm sắc như dao

Có mảnh nhọn hơn lá lúa

Chạm vào là máu ứa

Chạm vào là rách thịt da

Những bàn chân mang giày vải vẫn xầm xập chạy qua

Lưng còng xuống, mặt ngẩng về phía trước

Nơi ấy đang cần đạn

Nơi ấy thương binh chờ

Vượt ngã ba cửa tử

Vào Hang Dơi, Làng Lò

Những gương mặt lính sáng lên, rồi lại thẫn thờ

Chẳng có gì đâu trong ba lô toàn đạn nhọn

Bởi mấy hôm rồi chẳng có chuyến xe lên

Những dấu hỏi hằn gương mặt sạm đen

Nỗi buồn tủi ẩn trong lời cảm thán :

“Hay là đã quên ? Hay là đã bán ?

Hay là đã chán ? Hay là phủi tay ?…”

Gạt đi giọt nước mắt cay

Tay khẽ khàng đặt thương binh lên võng

Lại vượt qua suối sâu, đường lộ thiên, bãi trống

Mang tai bập bùng tiếng nổ, tiếng rên đau

Mặc kệ đạn trên cao

Mặc kệ đạn dưới thấp

Nghe tiếng đạn quen mới nằm xấp xuống mặt đường

Đá đập vào người, đá thúc vào xương đau nhức

Đợi đến khi đạn dứt

Lại tất tưởi chồm lên, vai nặng trĩu đòn khiêng

Những thân người chạy liêu siêu ngả nghiêng

Hướng về phía Nà Cáy

Đoạn đường dốc lên đạn pháo cày nát bấy

Đã có lính nào sửa sang

Mùi máu, mùi cồn vẫn nồng nực trong hang

Lính bị thương nằm ngổn ngang dồn đống

Thở phào vì thương binh vẫn sống

Tay lại khẽ khàng gỡ khỏi võng với đòn tre

Bãi tử sỹ nằm bên cạnh bờ khe

Hình như đã nhiều hơn lúc trước

Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột

Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm

Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm

Bê những mảng đá to đặt đè lên từng khuôn mặt

Che đi những quầng mắt đã lặng ngủ im

Che đi những con mắt không thể nào khép lại

Cơn gió mùa Thu như lồng lên quằn quại

Hình như gió cũng rưng rưng

Mấy hôm rồi mà chẳng thấy xe lên

Chẳng biết đêm nay có chuyến nào tới được

Để đón anh em về một chốn bình yên

Để đưa anh em về trước…

(Nà Cáy-Thanh Thủy-Mùa thu 1986)

Xem Thêm :

Có ai biết “Tiếng vọng đèo Khau Chỉa” là cuốn sử liệu đầu tiên về cuộc chiến tranh 17-2-1979


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Trường thi Hương Nam Định, kỳ thi năm Tân Mão [1891]

  Trường thi Hương Nam Định, kỳ thi năm Tân Mão [1891], các thí sinh đang lều chõng đi thi, một cụ làm bài xong ra ngoài ngồi, còn các cụ kh...