Tôi là người gốc Triều
Châu nhưng
từ nhỏ đến lớn
chỉ học tiếng
Việt và chỉ
giao du với
bạn VN và ngay
cả cái nhà tôi
ở cũng ngay
trung tâm
thành phố
(ngay trước
Hội Đồng Xã
Tân An - Cần
Thơ) và xung
quanh là nhà
của các công
chức VN. Vốn
liếng tiếng
Tiều của tôi
lúc đó rất ít
nhưng lớn lên,
cho đến giờ
tôi vẫn có một
suy nghĩ: tại
sao người ta
gặp nhau hay
hỏi "Anh khỏe
không?", "How
are you?"
"你好嗎?" nhưng
duy nhất thời
đó người Triều
Châu ở VN
găp nhau lại
hòi "食飯未?"
(chẹ bừng quề)
có nghĩa là
"Ăn cơm chưa?"
Nghe
bà nội tôi kể:
hồi đó bên Tàu
nghèo lắm,
nhất là ở quê
hương của
bà, không đủ
cơm ăn, một
nắm gạo nấu
nước, người
lớn uống nước
cháo, gạn xác
cháo cho con
ăn đỡ dạ. Có
lẽ đó là lý do
tại sao rất
nhiều người Triều Châu bỏ
nước ra đi làm
cu-li hay bất
cứ công việc
vất vả nặng
nhọc vì chỉ
mong tìm chút
tiền để gởi về
giúp đỡ gia
đình và cho
đến bây giờ
trên thế giới,
doanh gia
người Hoa
thành công lớn
và giàu có
trong thương
nghiệp, đa số
đều gốc gác Triều Châu.
Sau
tháng 4 năm
1975, thời
gian đầu,
không đủ gạo,
gia đình tôi
phải ăn cơm
độn. Với anh
em tôi thì
không thấy gì,
không để ý mà
còn thấy lạ,
còn thích nữa
là đằng khác
(có lẽ vì chưa
đói qua) nhưng
tôi thấy bà
nội tôi khóc.
Bà nói không
muốn trở lại
thời kỳ đói
khổ bên Tàu,
nhưng cũng chỉ
tạm có mấy
tháng rồi
thôi, không
bao giờ có màn
cơm độn lần
nữa.
Tôi
cho tới giờ
vẫn còn bâng
khuâng đó nên
vẫn muốn tìm
hiểu tại sao
người Tiều ở
VN gặp nhau
hay hỏi "Ăn
cơm chưa?" mà
không bao giờ
hỏi "Khỏe
không?", vẫn
không thấy gì
giải thích đặc
biệt trên mạng
nhưng lại tìm
được một
truyện ngắn
của Bình
Nguyên Lộc.
Đọc hết câu
chuyện trong
bài viết, tôi
cảm thấy nghẹn
ngào, rưng
rưng có lẽ nó
bây giờ đã
giải đáp dù
cho chưa thỏa
mãn nhưng cũng
đáp ứng phần
nào cho chút
suy tư của
tôi. Mời các
bạn:
ĂN CƠM CHƯA ? (食飯未 ?) của Bình Nguyên Lộc:
ĂN CƠM CHƯA ? (食飯未 ?) của Bình Nguyên Lộc:
Bà
sơ rút nhiệt
kế ra khỏi
nách tôi, chăm
chú đọc nhiệt
độ, mặt lộ vẻ
ngạc nhiên như
không tin ở
điều mà bà đọc
thấy. Bà dòm
mặt tôi, đoạn
đọc lại một
lần nữa.
Tôi
đang hồi hộp
vì đoán rằng
có chuyện
không hay thì
bà đã nhảy ra
khỏi phòng,
làm cho tôi
hốt hoảng đến
cực điểm.
Tôi
mắc chứng
thương hàn,
sốt mê man mấy
tuần nay, vừa
tỉnh lại chứng
kiến sự bối
rối của con
người áo đen
bé loắt choắt
ấy, làm tôi
ngỡ, tôi chết
đến nơi.
Nhưng
gương mặt tươi
của bác sĩ
Chaput hiện ra
nơi khung cửa,
giúp tôi an
lòng lại ngay.
Giờ ấy còn sớm
quá, bác sĩ,
chắc mới đến
nhà thương,
chưa kịp mặc
áo choàng, còn
vận thường
phục.
Bà
sơ theo sau
nói:
-
Hắn không còn
nhiệt độ nữa,
chắc hắn phải
lạnh lắm, vì
sự thay đổi
đột ngột nầy,
tôi cho hắn
uống Potion de
Todd, bác sĩ
nhé!
-
Phải đấy.
Đoạn
bác sĩ hỏi
tôi:
-
Ông nghe thế
nào?
-
Như vừa tái
sanh, thưa bác
sĩ.
-
Tốt! Mới nghe,
tôi hoảng
lắm,vì nhiệt
độ xuống thình
lình, có thể
là triệu chứng
của sự chảy
máu ruột… nếu
ông lén ăn gì.
Tôi
cười, một cái
cười héo hon
của con người
sốt liên miên
hăm tám ngày,
mà không ăn
uống gì cả
trong thời
gian đó. Bác
sĩ dặn thêm,
trước khi rời
buồng tôi:
-
Vài hôm nữa là
thèm ăn, nhưng
phải nhịn, ăn
là lủng ruột
ngay. Ngoan
lên nhé!
Như
vừa được tái
sanh! Tôi nói
không quá lố
lắm đâu. Vi
trùng thương
hàn phá rối
sinh lý con
người một cách
kỳ lạ lắm. Tôi
nghe yêu đời
ghê hồn và dòm
ra sân nhà
thương tỉnh
Bình Dương
(bấy giờ là
Thủ Dầu Một),
tôi thấy khóm
bông gừa, thứ
bông hèn ấy,
sao mà hôm nay
lại đẹp lạ
lùng.
Trưa
hôm đó, bác sĩ
Chaput khoe
với tôi rằng,
ở trại bố thí
III, một con
đồng bịnh với
tôi cũng vừa
khỏi. Ông ta
sung sướng về
chuyện ấy
lắm,vì con
bịnh các trại
bố thí chết
nhiều quá,
khiến dân
chúng hiểu
lầm, nhà
thương bỏ bê
người nghèo
khó. Sự thật,
thì sở dĩ, số
tử ở đó lên
cao theo tỷ
lệ, vì các con
bịnh nghèo,
thường để thật
nguy kịch mới
vào nhà thương
và khi vào
điều trị,
không có người
nhà theo để
săn sóc, nhà
thương chỉ vừa
đủ người lo
thuốc men
thôi. Còn
những sự săn
sóc (rất cần)
phải được
người nhà lo
lấy mới mong
lành bịnh.
Tôi
yêu đời, và cố
nhiên, yêu kẻ
đồng bịnh vừa
khỏi cùng một
lượt với tôi.
Ba hôm sau,
được nuôi
dưỡng bằng
nước xúp và
bột Ý, tôi đã
chống gậy đi
được, và mục
tiêu phiếm du
đầu tiên của
tôi là trại
III.
Kẻ
đồng bịnh với
tôi là một cô
gái Trung Hoa,
hai mươi tuổi,
con gái đang
thì, cái ngực
tất phải to,
thế mà tôi
trông cô ta
xẹp lép như
con khô hố.
Cái mền cô ta
đắp, như dán
sát vào chiếu
nhà thương.
Người
bạn đồng bịnh
với tôi, đi
không được như
tôi. Trong cơn
nóng sốt không
ăn, người nhà
tôi có mua
Sérum Glucosé
cho bác sĩ bơm
vào tôi, nhờ
thế mà tôi
không suy lắm.
Con bịnh nghèo
nầy, thì khỏi
hưởng món xa
xí phẩm ấy, mà
nhà thương
không sắm
được, vì kém
tài chánh.
Tuy
nhiên, nhìn sơ
cô gái, tôi
cũng thấy là
cô ta đẹp lắm.
Hoa tàn kia mà
còn mang dấu
vết thời tươi
thắm thay,
huống chi đây
chỉ là một đóa
hoa thiếu nước
lọ trong chốc
lát thôi… Cứ
theo người
cùng trại với
Á Lìl, thì cô
ta là một đứa
bé “mua”. Chú
Xừng Hinh, chủ
tiệm chạp phô
ngoài chợ, năm
xưa về thăm
quê quán bên
Tàu, gặp mùa
lụt lội, đói
kém, đã mua
đứa bé ấy ba
mươi đồng bạc.
Bạc Trung Hoa
với bạc Đông
Dương thuở ấy
tương đương
giá với nhau,
thì các bạn
biết, con bé
ấy rẻ là dường
nào.
Như
chủ nó, Á Lìl
là người Triều
Châu. Phụ
nữ Triều
Châu để
rìa tóc phủ
lên trán, xem
rất ngây thơ
và có duyên.
Họ lại đẹp
người hơn tất
cả các thứ
người Trung
Hoa khác. Á
Lìl lại là gái
dung nhan có
hạng trong thứ
người đẹp nầy,
nên tình
thương kẻ đồng
bịnh của tôi,
bỗng nhiên,
tăng lên gấp
bội, vì tôi
mới có hăm
ba tuổi.
Nếu
như ở ngoài,
chắc không bao
giờ tôi nghĩ
đến chuyện yêu
một ả nô tỳ,
cho dẫu là nó
đang đẹp lộng
lẫy. Nhưng ở
đây, nó là con
bịnh, đồng
hạng với tất
cả con bịnh
khác.
Một
ngày, tôi
chống gậy
xuống trại III
đến hai lần,
lần nào tới
nơi, tôi cũng
đứng lại nơi
cửa trại, để
thở dốc một
hơi, rồi mới
vào được.
Á
Lìl đoán biết
tình cảm của
tôi đối với
nó, nên lần
nào, mắt nó
cũng sáng lên,
khi nghe tiếng
gậy của tôi
nện cồm cộp
trên gạch.
Từ
năm lên chín,
mãi đến bây
giờ, nghĩa là
từ năm bị bán
và đưa sang
nước “An Nam”,
con nô tỳ nầy
chưa được ai
nói ngọt với
nó lời nào cả.
Bây giờ, bỗng
nhiên có một
dân mặc
bi-da-ma
riêng, lân la
thăm hỏi nó,
thì làm sao nó
không rưng
rưng lệ sung
sướng được.
Mặc
dầu chỉ được
uống nước cháo
với đường hạ,
con ở Á Lìl cứ
càng ngày càng
hồng hào ra.
Con gái, dường
như, có dự trữ
trong người
những sức mạnh
gì như cứ chực
vùng lên,
không cần ăn
gì cho bổ lắm,
họ cũng cứ béo
tốt ra.
Má
Á Lìl cạn dần
lên, trông
ngon như hai
trái đào ở bảy
phủ Triều
Châu mà Á
Lìl thường ca
tụng với tôi.
Trông
Á Lìl, tôi
nghĩ ngay đến
những phi tần
bên Tàu ngày
xưa, cũng
tuyển lựa
trong đám dân
“nước lụt” như
vầy. Thì ra,
con gái Trung
Hoa, ngàn đời,
vẫn đẹp và vẫn
để mà tiếp tế
cho các cung
tần. Á Lìl sẽ
làm bé chú
chệt già đại
phú nào đây,
một ngày
kia.
Hôm
ấy, Á Lìl ngồi
dậy được,
nhưng còn phải
ăn cháo hoa
với hàm-yũu.
Cháo với vị
mặn giúp Á Lìl
tươi tỉnh hẳn
ra. Nó tiếp
tôi bằng một
bài hát gì đó,
tôi không
hiểu, nhưng
rất thích
nghe. Cái
giọng mũi của
người Triều
Châu, khi
hát lên, nghe
líu lo rất dễ
yêu, nhứt là
dễ thương,
nghe như là họ
khóc cảnh sống
lầm than của
họ.
-
Nhà đem cơm từ
bao lâu rồi?
-
Ngóa thèm quá,
chỉ mới nhắn
đem vô lần đầu
thôi.
-
Lìl không nên
ăn cơm vội.
Bác sĩ không
có dặn gì sao?
-
Bác sĩ nói
tiếng Tây,
ngóa đâu có
hiểu. Bà Sơ
biết chút ít
tiếng Annam,
dặn đừng cho
ăn đồ cứng, ăn
thì lủng ruột
chết liền.
Á
Lìl nói xong
cười ngặt
nghẹo, một
hơi, rồi tiếp:
-
Đời thuở nào,
ăn cơm lại
chết. Chỉ có
không ăn cơm
mới chết thôi.
-
Lìl không
hiểu, chớ ruột
Lìl đã bị vi
trùng làm cho
mỏng lắm rồi
đó.
Á
Lìl lại cười
một giây nữa,
mà rằng:
-
Bị thuốc của
thằng Tây làm
cho mỏng thì
có. Thầy biết
sao không? Hổm
nay ông Tây
chích cho ngóa
chết mà ngóa
không chết,
nên ổng bỏ đói
cho ngóa chết
đó.
Á
Lìl nói rồi
vừa kéo
gàu-mên cơm
lại, vừa nói:
-
Ăn cơn với
ngừng (gừng)
nấu dấm thì
tốt lắm, như
người Annam ăn
với muối tiêu
vậy mà, chết
sao được.
Tôi
bối rối quá.
Hôm ấy có Má
Mẹ, người cai
quản các bà
Sơ, từ Sàigòn
lên Bình Dương
thanh tra, nên
bà Louise bận
tiếp đón bà Mẹ
Bề Trên ấy,
không còn ai
cho tôi cầu
cứu để thuyết
lý Á Lìl. Các
thầy khán hộ
thì đã dặn con
bịnh cữ kiêng
xong là nghe
tròn bổn phận,
không theo dõi
họ để ngăn cản
gì nữa. Còn
tôi, tôi ngại
một điều, mà
cũng chẳng
khỏi.
Khi
tôi giựt lấy
gàu-mêm cơm,
thì Á Lìl giận
dỗi trách:
-
Cố lứ nói
thương ngóa,
sao không cho
ngóa ăn cơm?
-
Vì thương mới
không cho ăn.
Thật
thế. Nếu Á Lìl
chỉ là một cô
gái xấu xí,
tôi cũng không
nỡ để cho nó
tự tử một cách
gián tiếp như
vậy. Huống chi
trong mấy ngày
vui mừng tái
sanh ấy, tôi
lại điên dại
mà yêu đứa nô
tỳ nầy.
Lìl
cười gằn hỏi:
-
Thương gì lại
bỏ đói?
-
Vì ăn thì chết
ngay.
-
Đời thuở nào,
ăn cơm lại
chết. Chỉ có
không ăn cơm
mới chết thôi.
Á
Lìl lập lại
câu hồi nãy,
rồi khóc mùi
mẫn.
Thật
là em nhỏ, mất
miếng ăn một
cái là khóc bù
lu, bù loa.
Nhưng không
sao, tôi sẽ dỗ
em nhỏ, thì em
nhỏ nín chớ
gì.
Tôi
định bụng như
thế, nhưng tôi
lầm.
Lần
đầu tiên, tôi
rờ đến Á Lìl.
Tôi vuốt tóc
trán nó và nói
rằng:
-
Lìl nín đi,
rán nhịn, rồi
vài bữa khỏi
hẳn, tôi sẽ
đưa Lìl đi ăn
tửu lâu Triều
Châu Đại
La Thiên ở Chợ
Lớn, có nhiều
món ngon bằng
một vạn thứ
cơm gừng dấm
nầy. Ở Đại La
Thiên có chè
thịt heo nè,
có cù lao nè.
Nhưng
Á Lìl cứ khóc,
khóc như mẹ
chết không
bằng, lâu lắm
nó mới nói
được trong tấm
tức, tấm tưởi:
-
Ngóa nhớ tía
má của ngóa
quá. Tía má
ngóa vì không
có cơm ăn nên
chết. Tía ngóa
chết đi được
một tháng, thì
má ngóa bán
ngóa cho Xừng
Hinh lấy tiền
mua gạo cho
mấy em của
ngóa ăn. Nhưng
cả nhà ăn giỏi
lắm được mười
ngày, chắc rồi
cũng chết hết.
Cơm sao lại
giết người?
Không cơm mới
nguy chớ!
Nghe
Á Lìl nhắc tới
nguồn gốc nó,
tôi đau xót vô
cùng. Cơm là
giấc ác mộng
của người
Trung Hoa từ
mấy ngàn thế
hệ nay, cho
đến đỗi họ gặp
nhau, chào
nhau bằng câu:
“Ăn cơm chưa?”
Nhưng
làm thế nào
cho con bé dại
dột nầy hiểu
rằng, không
cơm thì chết
đã đành, mà có
cơm, lắm khi
cũng chết.
Vả,
Á Lìl không cả
quyết ăn vì
thèm nữa, mà
ăn để trả thù
sự chết đói
của cả nhà nó,
thì làm sao mà
thuyết phục nó
được. Có lẽ nó
đang nhìn cơm,
mà nói thầm:
“Ừ, ngày xưa,
cha mẹ tao
không có mầy
nên chết, bây
giờ gặp mầy
đây, tao có
dung tha đâu!
Tao ăn cho
sống dai, mặc
kệ lũ nó bày
điều, đặt
chuyện”.
Biết
nói làm sao
cũng không
xong, tôi xách
gàu-mên mà đi;
sau lưng tôi,
Á Lìl chửi rủa
om sòm bằng
tiếng Tàu. Nếu
nó mà rượt
theo được,
chắc nó một
mất, một còn
với tôi, để
cướp cơm lại.
Chiều
hôm ấy, tôi
trốn luôn,
đến sáng
ngày hôm sau mới
dám chống gậy
qua trại III.
Á
Lìl vắng mặt
trên giường.
Thấy tôi ngơ
ngác tìm
quanh, một bà
lão vừa ho sù
sụ, vừa nói:
-
Nó chết đêm
rồi thầy à,
hồi năm giờ
sáng, người ta
đã khiêng nó
xuống nhà xác.
-
Trời ơi! Sao
lại chết? Tôi
giậm chân mà
hỏi câu ngớ
ngẩn ấy.
Người
khán hộ ở đâu
sau lưng tôi
đáp hộ bà lão:
-
Chảy máu ruột!
-
Sao lại chảy
máu ruột?
-
Vì ăn!
-
Trời ơi!
Bà
lão ho, rồi
lại nói:
-
Thầy giựt cơm
của nó mà trốn
đi, thì chiều
lại, người nhà
nó đem cơm vô
nữa. Nó ăn
xong, tối lại
kêu đau bụng,
vằn vật tới
khuya mới
chết.
-
Có, tôi có cho
bà Sơ hay, bả
có kêu thầy
đây.
Bà
chỉ vào thầy
khán hộ, thầy
ta lắc đầu thở
ra và giải
thích:
-
Tôi có tiêm
thuốc cho nó,
nhưng không
gọi bác sĩ...
-
Sao vậy?
-
Vô ích. Chỉ có
sang máu mới
có một chút
xíu hy vọng
cứu nó. Nhưng
ai sẽ cho máu
nó? Còn thuê
người để lấy
máu thì tiền
đâu?
Là
con trai, tôi
không khóc
được. Nhưng
lòng tôi đã
tơi bời như áo
mục phơi dưới
gió to. Đứng
tần ngần giây
lâu, tôi hỏi
bà lão:
-
Nó có nói gì
hay không bà,
lúc nó hấp
hối?
-
Có. Nó có kêu
thầy...
-
Kêu tôi? Có
nhắn gì hay
không ?
Nó
kêu khóc rằng:
“Thầy hai ơi,
té ra, quả
thật không cơm
cũng chết, mà
ăn cơm cũng
chết. Ngóa
nghèo dốt,
biết đâu.
Trước kia tía
má của ngóa
nghèo nên
không ăn cơm,
ngày nay ngóa
nghèo nên
không biết,
hai lần đều
chết. Thầy hai
ơi, ở lại mạnh
giỏi nhá!”
Tôi
không còn là
con trai nữa,
nhưng tôi
không khóc
tiếc thương
một cô gái
đẹp. Tôi chỉ
khóc vì một
gia đình sống
không tên,
không tuổi bị
thảm kịch cơm
làm tuyệt nòi,
chỉ còn một
mống thôi.
Mống ấy trôi
dạt đi xa ngàn
dặm, qua cái
xứ có cơm
nhiều nầy, mà
lại cũng không
thoát khỏi
thảm kịch cơm.
Ngày
nay, mỗi khi
nghe một người
Trung Hoa chào
ai: “Ăn cơn
chưa?”, tôi
bâng khuâng
nhớ lại mối
tình yêu đầu
và nao nao
buồn mối tình
thương đầu của
tôi.
BÌNH NGUYÊN LỘC
Lê Hữu Khoan sưu tầm và Hồ Xưa trình bày, chuyển_____________
BÌNH NGUYÊN LỘC
Lê Hữu Khoan sưu tầm và Hồ Xưa trình bày, chuyển_____________
bài rất hay
Trả lờiXóa