Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2022

CÁCH XƯNG HÔ TRONG TÔN GIÁO

Trong một bài viết của tác giả Đinh Lâm Thanh có đoạn:
        “Văn hóa truyền thống dạy cho người Việt chúng ta kính trọng các bậc tu hành, vì những vị tu hành là những người đã dứt khoát trần tục, từ bỏ giàu sang danh vọng phú quý để tìm con đường tu thân, và từ đó, dẫn dắt người đời đến một cuộc sống thánh thiện, chân thiện mỹ…
        Sở dĩ chúng ta trọng những người tu hành vì những vị nầy đã trở thành những kẻ hơn người. Họ đã từ bỏ được ba cái tầm thường ‘Tham, Sân, Si” của giới phàm tục. Như vậy, những ai một khi quyết định xa gia đình, dứt bỏ phú quý danh vọng để tự nguyện trở thành kẻ phục vụ chúng sinh, lấy đức bác ái, tinh thần từ bi hỷ xả làm lý tưởng để lo cho đời sống tâm linh con người, đồng thời chấp nhận làm kẻ thấp hèn trong xã hội cũng như quên mình để hiến dâng cho lý tưởng, thì đều được xã hội quý trọng. Người Việt chúng ta rất sùng đạo, đó là vấn đề rất tốt.
       Nhưng hành động trọng cha, kính thầy một cách quá đáng, có thể nói rằng đi đến lố bịch của một số con chiên, Phật tử đã làm hư các thầy các cha, đồng thời biến các vị tu hành thành Phật, thành Chúa, là thần thánh oai nghiêm và quyền uy vô lượng, chứ không còn là những kẻ tu hành hèn mọn, mà những vị nầy đã tâm nguyện dâng hiến cuộc sống để trọn đời phục vụ Phật tử, tín đồ cũng như con chiên!
       Những hình ảnh chấp tay cúi đầu: "Con lạy thầy, con lạy cha" làm cho các nhà tu hành quên hẳn vai trò một nhà sư, một cha xứ đạo...! Để rồi những vị nầy tự ban cho mình cái quyền linh thiêng, đại diện Phật, Chúa ban phát ân huệ cho chúng sanh, con chiên và bắt người phàm tục phục dịch cho mình.
       Hình ảnh và thái độ của thầy cha ngày nay thường bị hư hỏng và đôi lúc trịch trượng bởi hai lý do:
       - Trước hết là số người người sùng đạo có thái độ tôn trọng cha thầy một cách quá đáng, việc gì của thầy của cha làm đều tốt đều đẹp, lời thầy lời cha nói gì nghe cũng hay cũng phải.
       - Thứ đến, là một số tín đồ, giáo hữu cò mồi dựa vào tôn giáo để làm chính trị cũng như kinh doanh, họ bám sát vào thầy vào cha, nhà chùa, nhà thờ, đánh trống thổi kèn, chấp tay lạy sống thầy, cha khúm núm trình thưa như đang đứng trước mặt quan quyền vua chúa ngày xưa..
       Hành động nầy chẳng những đưa "cái tôi" của thầy, cha lên tận mây xanh. Do đó, những cái tầm thường xấu xa trong lòng các vị tu hành đã không diệt được mà còn được bơm lên thì Tham, Sân, Si trong lòng các vị tu hành càng ngày càng lớn hơn những người phàm tục nữa! Như vậy, tu hành đã không đạt được kết quả…mà một khi cái Tham, Sân, Si trong các vị tu hành thường xuyên bị dồn nén thì sẽ bộc phát dữ dội.
       Nên nhớ rằng: Các nhà tu hành một khi đã đi lạc đường, thì cái Tham, Sân, Si sẽ quậy tới bến còn hơn những người phàm tục!!!  
       Cá nhân tôi là người trong cuộc và đã chứng kiến tận mắt hai trường hợp, từ đó lòng tôi mất đi rất nhiều kính trọng đối với một số vị tu hành:
1. Trong một cuộc biểu tình, tôi được giới thiệu với một vị linh mục còn trẻ hơn tôi. Sau câu chào hỏi thân mật xong thì vị linh mục quay mặt đi nơi khác, hình như có thái độ không muốn nói chuyện với tôi nữa, vì tôi đã thẳng thắn kêu bằng cha và xưng tôi. Có lẽ chữ tôi trong cách xưng hô không thích hợp giữa một giáo dân với một vị linh mục nơi đông người đã làm giảm giá trị một vị tu hành, nên vị nầy đã quay mặt đi giã vờ nói chuyện với những người chung quanh.

        Nếu tôi trịnh trọng gọi bằng cha thì phải xưng con như những người khác thì câu chuyện sẽ được tiếp tục trong tình thân mật! Tôi có thể gọi cha và xưng con trong nhà thờ, lúc xem lễ hay vào tòa xưng tội theo con người Ky tô hữu của tôi. Nhưng ngoài đời, trong một buổi biểu tình chính trị, thì giữa hai người tu hành và giáo dân cũng đều là những người dân tỵ nạn Việt Nam. Tôi nghĩ rằng một người già trên 70 xưng con với một vị linh mục còn trẻ giữa nơi công cộng thì cũng khó nghe! Như vậy trong bộ áo màu đen quý trọng đang mặc trên linh mục nầy, cái sân si vẫn còn quá nặng mùi trần tục trong một vị tu hành.
2. Dịp cúng thất cho một người trong gia đình, nhằm buổi cơm chay, tôi có dịp phải đi ngang qua phòng ăn - nối liền từ chân cầu thang đến chánh điện – trong lúc các vị sư đang dùng bữa. Chuyện đập vào mắt tôi, vị trụ trì ngồi đầu bàn, sau khi ăn hết chén cơm vị nầy ngồi yên, không quay lại, đưa cái chén ra phía sau…thì một Phật tử chấp tay vái lạy ba cái, cúi mình xuống và đưa hai tay lên khỏi đầu đở lấy cái chén, lấy cơm xong lại cung kính dâng lên vị trụ trì như lúc đầu…trong lúc tô cơm đang nằm ngay trước mặt và trong tầm tay của vị trụ trì! Phía bên kia, một Phật tử cầm quạt đang phe phẩy để cho thầy dùng cơm mặc dù Paris lúc đó đang mát trời! Tôi thấy vị trụ trì nầy đã quên hẳn mình là kẻ tu hành mà có thái độ trịch trượng như một vị vua chúa ngày trước.
        Trở về với đề tài, nhiều người hỏi tôi thời đại nầy làm nghề gì sướng nhất, tôi có thể trả lời tức khắc không cần đắn đo suy nghĩ rằng: "Nghề Đi Tu"! Một nghề không đòi hỏi vốn kiến thức, không cần đầu tư tài chánh mà chỉ cần thuộc vài bài kinh – như loại tu hành quốc doanh - là có thể hành nghề một cách dễ dàng.
        Khi hành đạo, không cần làm việc, nhưng tài sản đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc do con chiên thiện nam tín nữ cung hiến cũng quá dư thừa cho phép những vị nầy ăn uống no say, vợ con đầy đủ và nếu muốn thì tình nhân cũng sẵn sàng có ngay!
Nhà cửa được giảm hoặc miễn thuế, ăn khỏi tốn tiền, có người hầu hạ, có kẻ làm bếp dâng lên tận miệng. Có vị còn biến từ nhà ở cho đến nơi thờ phương thành cơ sở kinh doanh với giá bán cắt cổ từ cuốn sách cho đến gói thực phẩm. Tất cả hoạt động kinh tế đều theo hình thức chui và chỉ thu tiền mặt.                               
        Các lễ lộc phục vụ tôn giáo không có tình trạng miễn phí hoặc giảm giá cho nhà nghèo mà phải tuân theo theo từng bậc giá cả khác nhau. Cước phí xin lễ, cầu nguyện đối với các vị tu hành người nước ngoài hoàn toàn do tín hữu tự nguyện không bắt buộc theo một hình thức khuôn mẫu nào.
        Tôi chứng kiến một cha người Pháp đã từ chối số tiền lớn do một tín hữu người Việt Nam đến nhà thờ Tây xin lễ bình an cho gia đình.. Chẳng những thế, nhà thờ còn làm hóa đơn chính thức để ghi vào sổ của nhà thờ.
        Nhưng trái lại, trong một dịp gặp một cha người Việt Nam để xin lễ, vị linh mục nầy cho giá đàng hoàng và tỏ vẽ không hài lòng khi tôi đề cập đến giá cả của nhà thờ!
        Từ chỗ nầy người ta xem các vị tu hành từ trong nước ra đến hải ngoại hành nghề tôn giáo với giá cả cắt cổ tín hữu và Phật tử một cách vô tội vạ.
        Riêng việc tang chế, giá cả được ấn định bao nhiêu tiền cho cha thầy đến tư gia, đến nhà xác để tụng niệm. Bao nhiêu tiền để tổ chức theo hình thức lớn, trung bình, nhỏ đối với một lễ tiễn đưa người quá cố, bao nhiêu tiền để mang cốt tro về chùa, nhà thờ… và bao nhiêu tiền theo đẳng cấp giàu sang hay bình dân để thuê một cái hộc để đựng hủ cốt người chết!
        Tiền nhiều thì nhà chùa nhà thờ tổ chức lớn, với nhiều cha nhiều thầy làm lễ.. Nhiều tiền thì tổ chức lễ riêng rẽ một cách trang trọng vào cuối tuần.
        Ít tiền thì tổ chức cầu siêu tập thể và vào những ngày giờ làm việc.
Chính các thầy các cha đòi hỏi giá cả để tổ chức những buổi lễ đình đám cho hôn nhân, cầu siêu, án táng, đưa hài cốt về chùa, về nhà thờ.
        Những tiền lệ nầy đã tập cho tín đố Phật tử những tính xấu, xem thường việc linh thiêng tôn giáo đồng thời tạo cho những gia đình nghèo, thiếu phương tiện bị mặc cảm và đau lòng mỗi khi có người thân vừa nằm xuống.
       Chắc tất cả mọi người đều công nhận rằng nghề đi tu chẳng những là một nghề ấm thân cho kẻ tu hành mà còn giúp họ trở thành triệu phú một sớm một chiều. Chẳng mất một giọt mồ hôi, suốt đời không đóng thuế, nhà cửa được giảm tiền điện nước lại còn hưởng trợ cấp đặc biệt của xã hội.
        Cuộc đời tu hành thật đáng giá ngàn vàng, chỉ một sáng một chiều trở thành triệu phú, trở nên kẻ ăn trên ngồi trước và được trọng vọng nhất trong thiên hạ: Nhà cao cửa rộng, đi Mercedes, BMW… có tài xế, ngày ăn no, đêm ngủ với vợ, ngày thì đệ tử tự nguyện (!) thời gian rổi rảnh thì đếm bạc giấy rồi đem cất vào tủ sắt…Như vậy nghề tu hành thời nay của người Việt quả thật là tuyệt hảo và độc nhất vô nhị của thế giới tính, từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đến nay.
       Nhà thờ nhà chùa đã biến thành cái chợ và hơn nữa các nơi nầy còn cạnh tranh tổ chức văn nghệ mừng Xuân, ca hát ăn uống…thì chắc Chúa và Phật cũng phải quay mặt trước tình trạng tu hành thời nay.
        Bây giờ giới trẻ ai cũng muốn đi tu, một nghề ngồi mát ăn bát vàng mà được thiên hạ đội lên đầu, chắp tay vái lạy thì còn gì quý hơn khi phải phí cuộc đời gần hai chục năm trong các nhà trường để rồi vác bằng chạy đôn chạy đáo kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp……”.
_____________________________Tác giã: ĐINH LÂM THANH

                         

 

    CÒN TRONG TÔN GIÁO CAO ĐÀI THÌ SAO?
        Nhân đọc bài trên đây của tác giả Đinh Lâm Thanh, tôi đã nãy sinh ý kiến là xin trích đăng tãi lại những điểm chính yếu của tài liệu về cách xưng hô trong Đạo Cao Đài và nhiệm vụ “phổ độ” mà tất cả tín đồ luôn đem hết tâm thành, thiện ý của mình ra làm cho đúng với danh đạo là “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”. Mục đích không phải là để hạ thấp Đạo nầy, tâng bốc Đạo kia mà chỉ nhìn vào sự thật: tâm nguyện mong sao người tu chân chính chu toàn được nhiệm vụ xã thân cứu đời của mình mà thôi.
       Thật cảm nhận tâm mình bình đẳng và giản dị làm sao khi đọc thấy những điều trọng yếu trong nội dung của Huấn Lịnh số 211/CV ngày 15 tháng 7 năm Nhâm Thìn (DL: 03-9-1952) của Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh ban cho Chức sắc, Chức việc và toàn đạo phải triệt để thi hành.
       Những điểm chính đó là:

1-     Giáo Tông và Hộ Pháp (Chức sắc cao cấp nhứt của Đạo Cao Đài) xưng mình là: Bần Đạo. Danh xưng Bần Đạo có ý nghĩa như thế nào?
      Bần là nghèo. Bần Đạo là “ông đạo nghèo”. Bần Đạo là tiếng xưng hô khiêm nhượng của những vị đạo cao đức trọng, hay những vị đại đức, đại từ lãnh đạo trong các tôn giáo. Các đấng Tiên, Phật khi giáng đàn cũng thường dùng danh xưng khiêm nhượng Bần Đạo nầy như Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng, Đức Lý Giáo Tông, Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, và Đức Hộ Pháp lúc còn tại thế hay khi qui tiên..v..v..
 
2-     Chưởng Pháp và Đầu Sư xưng: Tinh Tế. Ý nghĩa như sau:
Tinh là tinh vi, thuần túy; Tế là tế độ chúng sanh.
 
3-     Chánh Phối Sư và Phối sư xưng: Tiện Minh. Ý nghĩ:
Tiện là khiêm tốn, ám chỉ mình còn thiếu kém tài đức.
Minh là sáng, minh mẫn; lấy trí khôn mà xét đoán việc hành sự.
 
4-     Giáo Sư xưng là Tiện Hiền. Ý nghĩa: Tiện là khiêm tốn, cho mình là còn yếu kém về tài đức. Còn Hiền là là hiền đức, hiền lành. Đức Chí Tôn đã ban cho 72 Giáo Sư là Thất thập nhị Hiền thì cách xưng hô của Giáo Sư có chữ Hiền, nếu hiểu nghĩa trắng ra thiết tưởng không quá đáng.
 
5-     Giáo Hữu xưng là Tiện Đệ. Chữ Tiện cũng giống như trên, không ngoài tính khiêm tốn. Còn chữ Đệ là em, lấy từ ý nghĩa Tam thiên Đồ đệ (3 ngàn đệ tử) của Đức Chí Tôn ban cho. Đây là cũng cách xưng hô của người phẩm dưới đối với đàn anh, đàn chị bề trên của mình.
 
6-     Lễ sanh xưng là Thiểu Phẩm. Ý nghĩa: Thiểu là nhỏ, ít. Cách xưng thể hiện nét khiêm cung của người xưng. Đức Chí Tôn thường nói Lễ sanh là người có đức hạnh hơn hết trong các môn đệ của Ngài, mà xưng khiêm tốn như vậy thì giá trị của phẩm cấp của người xưng càng nâng cao.

       Nói một cách tổng quát, các Chức sắc phẩm dưới xưng hô với Chức sắc đàn anh của mình thì tự xưng mình là Tiện Đệ và gọi bề trên là Hiền Huynh. Còn bề trên xưng hô với đàn em dưới mình hay tín đồ thì xưng là Tiện Huynh và gọi người dưới là Hiền Đệ. Hết sức là thắm tình anh em trong gia đình, con cùng Cha chung Thượng Đế.
       Còn hai chữ ÔngNgài thì xưng hô thế nào?
       Cũng theo qui định trên của Hội Thánh:  Khi xưng với Chức sắc mang phẩm từ Giáo Sư trở lên thì xưng gọi là Ngài. Còn từ phẩm Giáo Hữu trở xuống thì xưng gọi là Ông.
      

 Thí dụ: Kính gởi Ngài Giáo Sư Thượng Thành Thanh.
                                   Khâm Trấn Đô Thành ………….
Hay:
                    Kính gởi Ông (hay Hiền Huynh) Giáo Hữu Thượng Mỹ Thanh
                                    Khâm Châu Đạo Mỹ Tho………
      Sau đó nếu có lập lại thì xưng bề trên là Hiền Huynh và xưng mình là Tiện Đệ là đủ.
      Đặc biệt, chỉ đối với Đức Lý Giáo TôngĐức Hộ Pháp thì phải ghi rõ Bạch Đức Giáo TôngBạch Đức Hộ Pháp. Và khi thư hay đơn kính trình dài thì sau đó khi cần xưng hô lập lại thì đề Bạch Đức Ngài.
       Đối với NỮ PHÁI: Chức sắc bề trên xưng hô với đàn em phẩm dưới thì xưng mình là Tiện Tỷ và gọi em mình là Hiền Muội. Chức sắc phẩm dưới xưng hô với bề trên (nữ phái) thì xưng mình là Tiện Muội và bề trên là Hiền Tỷ hay cao cấp nhứt là Đại Tỷ.
       (Tham chiếu Huấn lịnh số 211/CV- Ngày 15 tháng 7 Nhâm Thìn; DL: 03-9-1952)
       Trong các lời dạy của Đức Lý Giáo Tông hay của Đức Hộ Pháp gởi các Chức sắc, tín đồ Cao Đài, Đức Lý và Đức Hộ Pháp luôn xưng là Bần Đạo và gọi các đàn em là “Hiền Hữu” hay “các em” đầy tình yêu thương, hòa ái. Ngoài ra, trong các văn thư của Đức Hộ Pháp gởi các vị Quốc Trưởng các nước, Đức Ngài vẫn luôn luôn xưng Bần Đạo một cách khiêm cung, đạo đức.
        Luôn theo gương Đức Ngài, lấy đức tính khiêm cung làm căn bổn trong hành đạo, các vị Chức sắc lãnh đạo Cơ sở hay tổ chức Đạo khi ngõ lời chào mừng quan khách và đồng đạo luôn luôn mở đầu:
     “Kính thưa quý Quan Khách, quý Đại diện Cơ sở Đạo, Cơ quan đoàn thể các tôn giáo bạn.
        Nhưng kể từ năm Đạo thứ 50, Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài có ra Thánh Lịnh số 113-CQ/HTĐ ngày 19-5 Ất Mão (28-6-1975), tham chiếu các Thánh lịnh trước đây của Hội Thánh, đặt lịnh trong cửa Đạo Cao Đài từ ngày ký Thánh lịnh nói trên trở đi, chỉ dùng cách xưng hô Đại Huynh, Đại Tỷ, Hiền Huynh, Hiền Tỷ, Hiền Đệ, Hiền Muội trong các văn kiện giấy tờ hay trong các phiên họp Đạo. Còn ngoài ra trong giao tế hàng ngày thì xưng hô Anh lớn, Chị lớn và Anh, Chị, Em tùy theo phẩm cấp cao, thấp sao cho thuận thảo tình anh chị em thân thiện trong đại gia đình Đạo cùng một Đấng Cha chung Thượng Đế.
       Không giống như một vị Hòa Thượng của một ngôi chùa ở Texas mà một lần tôi được chứng kiến khi được mời tham dự một lễ Phật Đản. Vị Hòa Thượng, chỉ khoãng trên 30 tuổi thôi, nói trước hàng trăm tín đồ và quan khách, có vị trên 90 tuổi, có người là Phật tử hay có khách dự không phải là đạo Phật: “Bây giờ Thầy xin ngưng không giảng đạo nữa và cùng tất cả các con chơi rút thăm đánh số, coi ai trúng nghe!”, Tất cả những người có mặt đang nghe “Thầy” tự xưng mình và gọi mọi người có mặt kể cả các vị khách cao tuổi đều là con hết, nhiều người nghe nói vậy lắc đầu, có vẻ ngạc nhiên.
       Tôi thật sự không biết rõ trong các khóa đào tạo tu hoc của Phật giáo hay đạo Thiên Chúa, Tin lành, các Hội Thánh đó có ghi rõ cách xưng hô chính thức giống như trong tôn giáo Cao Đài hay không? Nhiều người phê bình thế nầy thế nọ như bài viết trên đây của tác giả Đinh Lâm Thanh, tôi thì không dám phê bình, nhưng có mục kích nhiều lần, thấy là có thật nên hơi thắc mắc nói ra vậy thôi.
                   

   CÒN VIỆC MA CHAY CHO NGƯỜI MẤT THÌ SAO?
      

 Tôi rất đồng ý với tác giả Đinh Lâm Thanh về việc “làm tiền” trong tang lễ của một số các thầy tụng trong Phật giáo. Chuyện đã xãy ra chính trong gia đình anh ruột của tôi. Một lần tôi chứng kiến tận mắt khi đến dự lễ tang cha ruột của chị dâu tôi. Bác hai (người mất) là tín đồ Phật giáo, bác trụ trì ngôi chùa ở Núi Bà, tỉnh Tây ninh. Đám tang cử hành theo Đạo Phật. Một vị Hòa Thượng và các thầy tụng được gia đình mời đến lo cho tang lễ của bác hai. Tụng kinh liên tục trong ba ngày. Đến ngày thứ hai, trong lúc tôi đang nói chuyện với anh tôi thì một vị thầy đến nói với anh tôi: “Chúng tôi tụng xong đủ 6 ngàn rồi, anh có muốn tụng thêm không?” Anh tôi và tôi rất ngạc nhiên. Nhưng anh tôi vẫn nói: “Cứ tụng tiếp cho đúng 2 ngàn nữa.” (tiền trước năm 1975).  Và các thầy tiếp tục tụng với chi phí ấn định trước đó.
        Thật tôi không hiểu gì hết, vì trong Đạo Cao Đài tất cả đều được miễn phí, đều làm công quả, phục vụ cho nhơn sanh, gọi là công tác “phổ độ” chứ không bao giờ tính tiền sòng phẳng lộ diện như vậy. Còn tiền công quả, ai có muốn đóng thì đóng góp, cứ bỏ vào tủ hành hương, bao nhiêu tùy khả năng và ý muốn. Còn ai không muốn hay không có tiền, thì việc lo tang lễ cho người chết vẫn tiến hành đầy đủ với hình thức theo luật Đạo Cao Đài qui định y như nhau không phân biệt đối xử.
        Trong Đạo Cao Đài, nhiều và rất nhiều người, có Đạo hay không phải là người Đạo, khi mất gia đình có đến nhờ các vị trách nhiệm của Đạo lo liệu giùm thì đều được sẳn sàng, dù hoàn cảnh nghèo đói không tiền đến thế nào chăng nữa. Việc làm thể hiện rõ tính nhân đạo và phổ độ của nền Đạo như danh xưng “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”.
       Năm 1972, khi bộ đội Cộng Sản tấn công đồn Phước Tân (Tây Ninh) . Một số chết  nằm la liệt ngoài rào của đồn,, không ai chôn cất. Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh thấy vậy xin phép chánh quyền sở tại, cho đạo tỳ của Tòa Thánh lên lo liệu giùm, đem đi chôn cất và cầu siêu tử tế, thể hiện tính từ bi đối với tất cả những mọi người, bất kể những người đã chết khi còn sống là ai, làm gì.
        Có một trường hợp nữa xảy ra tại vùng Long Hoa tỉnh Tây ninh, thời điểm sau năm 1975, tôi biết chính xác: Một vị nữ tín đồ hiến thân cho Đạo, gia đình rất nghèo, đến độ không có đến một bộ đạo phục mới để mặc cho bà để tẩn liệm sau khi bà chết. Nhà cửa không có, tiền bạc không có, đang phải ở đậu nhờ tại nhà người quen. Khi chết, người quen báo tin, các vị Chức việc và đồng đạo địa phương đứng ra lo liệu mọi việc thật chu đáo, đúng nghi thức Đạo không thiếu xót một điều chi. Đồng đạo ở địa phương chung góp mua vải may đạo phục, thực phẩm nấu cúng tế. Hội Thánh lo cho quan tài. Xong đám tang, thân nhân vị nầy còn dư được một số tiền để lo liệu hậu sự về sau.
        Qua những việc đã trình bày trên đây đã xác nhận một điều: Cách xưng hô và phương cách phục vụ nhơn sanh trong sinh hoạt đạo hàng ngày như giúp khó, trợ nghèo, tang tế lễ trong tôn giáo thể hiện trung thực tính nhân bản, mục tiêu cao thượng của riêng từng tôn giáo. Người tu hành từ Chức sắc cao cấp đến tận tín đồ, khi đã tâm nguyện xã thân vì Đạo để phục vụ cho nhơn sanh, là chấp nhận làm “đầy tớ”cho nhơn sanh như Đức Chí Tôn đã từng dạy, chứ không phải là giã nương vào cửa Phật để vinh thân, phì gia, ăn trên ngồi trước, chờ người khác tung hô mình, rồi mình tự coi mình như Thánh, như Phật, như hoàng đế, như cha, như thầy cả ngồi trên đầu thiên hạ thì còn gì gọi là TU.
         Hơn nữa, đi tu là để sửa bỏ cái đam mê, dục vọng, diệt trừ tánh nết trần tục bợn nhơ“Tham, Sân, Si”, tất phải hạ mình xuống thật thấp, đưa người khác lên cao. Nếu làm ngược lại với ý nguyện lúc ban đầu là “xả thân” cầu Đạo thì thật uổng phí một kiếp sanh rồi.
        Thương thay! Tiếc thay!

                              
                              BẾN ĐỤC TÂM TRONG
Lý tưởng ghi tâm sut cuc đi,
Th phi quyết chng đ lòng vơi.
Thanh danh c gi gìn muôn thu,
Đo đc trau tria mãi sáng ngi.
Th thách gian nan tâm chng đi,
Khó khăn cht vt chí không di.
Gương đi mãi sáng lưu nhân thế,
Bãi đc sen thơm mi tuyt vi.
HỒ NGUYỄN (16-7-15)

Tài liệu do Hồ Xưa sưu tầm và bổ túc thêm.
       

1 nhận xét:

ỚT HIỂM - Thơ Anh Khờ Và Bài Họa Của Các Thi Hửu

Bài Xướng ỚT HIỂM Ớt hiểm con con quả thật cay! Mằn sơ chút xíu... đỏ môi mày Sưng mồm xé lưỡi... thôi thì chạy... Nóng mặt phình mang... ch...