Thứ Ba, 21 tháng 12, 2021

CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT


      CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT

                                             ________________


        Xưng hô là mt vn đ không nh trong giao tiếp hin nay bng tiếng Vit, dù là người Vit nói chuyn vi nhau hay gia người nói tiếng Vit như ngôn ng th hai. Vn đ này làm không ít người ln tui, th cu khó chu, cũng như làm cho người tr bi ri và có khi tìm đường trn tránh. Có th tình trng này không có gì đ chê trách và ngoài ý mun ca chúng ta, vì nói cho cùng, lch s chúng ta dùng tiếng Vit vi nhau đã hơn 2 ngàn năm. Chúng ta cũng có th nói mt cách lc quan là: cách xưng hô ca chúng ta phong phú hơn tiếng Anh hay tiếng Pháp chng hn, vì trong các xưng hô biu l biết bao nhiêu điu ngoài ngôi th nht và th nhì trong cuc đi thoi, v vai vế gia đình, giai cp xã hi, tương quan xã hi, vv mà nếu ch gi nhau là "me" “moi” và "you", “toi”, “vous” thì nghe có v lt lo quá. Tuy nhiên, chúng ta cũng có th nói là cách chúng ta xưng hô phc tp hơn vì chúng ta không có loi đi danh t nhân xưng "one size fits all" như I, me, you. Tương t như chúng ta có yếm đ mc trong nhà (ngày xưa), áo bà ba đ đi ch, áo dài đ đi chùa, nhà th, đám cưới, nhưng không có b qun áo gn gàng và chp nhn được trong nhiu hoàn cnh.

        Tr ngi ln nht là chúng ta không có đi danh t loi generic, trung tính, dùng lúc nào cũng được như “je, nous” (ngôi th nht), tu, vous (ngôi th hai), il, ils hay elle, elles (ngôi th ba) ca Pháp, hay tương t I, we, you, she, they ca M. Tiếng Nht hình như cũng có hoàn cnh v đi danh t ging tiếng Vit. Theo wikipedia, tiếng Nht, ging như tiếng Vit không có nhng t ng thun túy là đi danh t như "I, me" và "you". Như tiếng Vit, h dùng nhng danh t (nouns) đóng vai đi danh t. Ví d: đ ch "I" h dùng 私 "watashi" có nghĩa là (tư, private, personal" hay 僕 "boku" có nghĩa là người tôi t nam (Hoa : Pú; Hán Vit: Bc).

Ngôn ngữ cần hay không cần chủ từ:

        Trong ng hc, có nhng ngôn ng mà người ta có th không dùng ch t trong mt mnh đ đc lp (null subject language như Nht, Hoa, Ý, La tinh) hoc không dùng đi danh t trong mt mnh đ đc lp (pronoun-dropping language, pro-drop languages); ví d Hoa ng, hay trong tiếng Nht, Hàn không nhng đi danh t b loi trong ngôi ch t mà còn b loi trong đa s hoàn cnh văn phm khác. Khác vi tiếng “non-pro-drop languages”, ví d trong tiếng Anh hay tiếng Pháp bt buc phi có ch t (subject), tr trường hp mnh lnh (imperative form, ví d "stop talking")..

        Bàn v null-subject, hay pro-drop languages, tiếng Spanish thường hay b luôn đi danh t: Ví d h nói "Creo que si" có nghĩa "tôi nghĩ là có" (I think so); không dùng đi danh t Yo là tôi; Trong "creo" đã bao hàm ngôi th tht ca đng t ‘creer’ (tin).

        Mt ví d na là câu "Je pense donc je suis" ca Descartes, lúc dch ra tiếng La-tinh không cn dch ch t ‘tôi’: "Cogito, ergo sum". (Tôi tư duy, do đó tôi hin hu) (1,2). Trong la tinh, người ta chia các đng t theo ngôi th (désinences), các đi danh t như "tôi" có hin hu nhưng ch dùng đ nhn mnh hay phân bit rõ hay ch t khác nhau (13). Có l tiếng Vit chúng ta cũng vy, chúng ta thường nói ‘trng’, không dùng ch t như trong bài thơ:

 

-"Ăn trái, nh k trng cây";

-"Ngi bun mà trách ông xanh,

Khi vui mun khóc, bun tênh li cười.."

                                      (Nguyn Công Tr).

        Có l vì vy mà chúng ta không có nhng đi danh t tương đương vi "I""me" "you" chăng? Hơn na, cho đến thế k th 19, tiếng Vit phn ln được dùng đ nói (ít khi dùng trong văn t do ít người biết và dùng ch nôm đ viết), mà lúc hai ba người nói chuyn vi nhau, ngôi th nht, hai hay ba đã t nó rõ ràng. 

       Ví d trong mu đi thoi sau đây:

Chng: Hôm nay (tôi) làm vic mt quá!

V: Sao (anh) v tr quá vy?

Con:(Con) đói bng quá!

V: (Em, má, tôi) Nghe ri. Mt quá. Thôi, (mình) ăn lin gi,(em, má, tôi) đi xung bếp hâm (đ ăn) đây!

        Trong văn viết, hoc văn nói nghi thc (formal), và cũng có th vì chúng ta b nh hưởng lúc dch tiếng Anh và tiếng Pháp trong lúc xây dng văn chương bng ch quc ng, chúng ta phi cn đến các đi danh t danh xưng (personal pronouns) nhiu hơn trước. 

        Đng thi vi Phan Khôi, thơ mi và Vit văn mi (ví d t Lc Văn Đoàn) theo trào lưu ch nghĩa lãng mng ca Châu Âu, nht là Pháp, và không ngn ngi đ cao cái tôi, cái ta, và đương nhiên kèm theo cái "em" hay "nàng":

"Tôi là người b hành phiêu lãng,

Đường trn gian xuôi ngược đ vui chơi..." (Thế L)

Hay: 

Chng phi vì anh chng ti em:

Hoa thu tàn t rng bên thm.

Ái tình sm n chiu phai rng:

Chng phi vì anh chng ti em..."(Thái Can, 1934)

Ngôi thứ nhất và nhì: 

         Ngày xưa, văn t ch Hán là li din t chính thc ca Vit nam chúng ta. Ch "tôi" trong ch Hán là "ngô". Ví d, thi c đi, Khng t nói:"Ngô thp hu ngũ nhi chí vu hc..." (Ta ti mười lăm tui mi chuyên-chú vào vic hc). Nhĩ là “ông”,” bà”, mày, "anh", "you". Tiếng Hoa hin nay, đi danh t ngôi th nht là “Ngã” [我][wǒ] và ngôi th nhì là “Nhĩ” [你][Nǐ], là "ng" và "n" ca người Tàu Ch Ln thi nay, đc theo ging Qung Đông. Tuy nhiên, có l vì tiếng Vit (nói) có th xut hin trước hoc cùng lúc vi tiếng Hán, chúng ta hin nay không dùng xưng hô theo biến th ca hai ch này. Khác vi trường hp tiếng Pháp, Đc.    Trường hp tiếng Pháp, xut hin sau tiếng la tinh; ch "je" gc tiếng la-tinh là eo (panroman/la-tinh bình dân) hay (ego la-tinh kinh đin). Và trong tiếng Anh, cũng thành hình sau tiếng Đc, ch "I" (vd: I love you) gc Đc là ich, cũng t la-tinh ego mà ra. (3,4)

         Chúng ta xưng: “tôi, tui, con, cháu, t, tao, qua” đ ch chính mình. Gin d và ph biến là xưng tên mình, gia người ngang hàng vi nhau, thân mt hay thân thin, hay ph n vi nam gii, hay tr em vi người ln, em vi anh ch. Mt khoa hc gia n ni tiếng cũng xưng tên lúc nói chuyn vi mt hi chuyên gia ti Canada, có l trong đó có nhng người mà chúng ta hay gi là "quý c bác, các bc trưởng thượng" cùng vi người đng la hoc tr hơn. Các MC trong các bui trình din ca nhc, nht là ph n cũng xưng tên, nhưng nam gii ln tui thì không; ví d MC NNN (gc Bc) xưng là tôi, MC NL xưng là chúng tôi, trong lúc MC VTh, người min Nam, tr hơn thì xưng bng tên.

        "Tôi" là ca tiếng nôm (Vit), trong cách viết dùng ch "toái" (ch Hán, có nghĩa là v tan, nhưng đc ging như "tôi"); "tôi" không có trong t đin ch Hán Vit ca Đào Duy Anh. Ngày xưa vua t xưng là trm, thy giáo t xưng là "thy", người nghèo t xưng là "con", v xưng là "thiếp" (trong văn chương). Ngôi th hai: "mày", hay "mi" đ gi người dưới, là tiếng nôm (thun Vit), trong cách viết ch Nôm được biu hin bng ch Hán ‘mi’ [眉], trong ch Hán có nghĩa là lông mày (eyebrow/ cũng như chúng ta gi "lông mi" (eyelashes). Trong ca dao, hát ru con là nhng th loi có th xưa nht "mày" cũng thường được dùng:

“Cái cò cái vc cái nông,

Sao mày gim lúa nhà ông hi cò...”.

Hay: 

“Cái ng mày ng cho ngoan,

Đ m đi cy đng xa trưa v.”

          Do xã hi đt nng v tôn ty trt t xã hi cũng như huyết thng, do đó chúng ta cũng như Nht, Hàn luôn luôn phi minh đnh vai trò ca người đi thoi/ đi din như cha, anh, em, bác, chú, cô hay c, ngài, b h, quan ln,... mà ít khi dùng đến t ng "mày", thun là đi danh t nhưng ch hn chế trong hoàn cnh không ít thì nhiu mit th.

         Nguyn Phú Phong trong trang báo mng "Chim Vit Cành Nam" có nhc chi tiết v ý nghĩa đi danh t "tôi" và "mày, tao" vào thế k th 17, theo nhn xét ca giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes đang nghiên cu v tiếng Vit (1651). Người Vit đa v b trên thi đó xưng mình là ‘tao’ và gi k dưới là 'mày', tuy v cũng được gi là 'mày' "mà không có s nhc m nào. Ngược li, người v xưng mình là 'tôi' (ancilla, tôi đòi) lúc nói chuyn vi chng. Rhodes cũng đt gi thuyế là nếu trường hp vua Vit Nam nói chuyn vi m ca mình, hay nếu Đc M Maria đi thoi vi Jesus ( là con ca mình, nhưng cũng là Chúa Con) thì xưng bng "tôi' cũng là thích hp. Tác gi cho rng kết hp danh t 'tôi' trong 'tôi đòi” vi ý khiêm nhường đ to nên đi danh t ngôi th nht "tôi" được tiến hành trong thế k th 17.(5)

        Min Nam và min Trung trước đây, trai có th xưng "qua" (anh, tôi) và gi người con gái, v là "bu" (em, người yêu, v).

“Ví du tình bu mun thôi,

Bu gieo tiếng d cho ri bu ra.

Bu ra cho khi tay ta,

Cái xương bu nát, cái da bu mm.”

        Cũng như "qua", có l ngun gc t bu do tiếng Triu Châu," “pa_u” hay “pu” hay “bô” (ging đc khác nhau tùy vùng: Bc Liêu, Nam Vang, Sài Gòn) là v, hoc đàn bà, không phân bit ngôi th, mt danh t thuc vào loi văn nói ca người thiu s Triu Châu (hay người M, theo Bình Nguyên Lc) nên không có ch viết, tc bình thường là t ng cũ ca người sng đt Hoa Nam trước khi vùng ny b người Hán hoá (theo Lê Ngc Tr, được Lê Tn Tài trích dn):

 

“Đn cò lên trc kêu vang,

Qua còn thương bu, bu khoan có chng..”.(10)

Ngôi thứ ba: 

        Đi danh t ngôi th 3: “nó, y, ngh, chàng, nàng anh ta, cô ta, bà ta”; s nhiu: “chúng nó, bn h,ti nó, người ta”. Tiếng Anh và tiếng Pháp hơi vướng mc trong ngôi th 3: “he, she” tiếng Anh và “il, elle, ils, elles” phân bit gii tính ca người (hay gii tính ca danh t trong tiếng Pháp, ví d "le Vietnam" được thế bng ‘il’ nhưng "la France" (ging cái, feminin) thì thế bng "elle"). Vì hin nay, có nhng trường hp nói chung, có th áp dng cho nam cũng như n, người M mun bình đng gii tính đã phi to cho nhng gii pháp ng hc mi như "he or she" hay mi đây nht, thế "he or she" bng “they” (theo s ít). Ví d, trước đây “he, his” đi din cho hai phái:

“A doctor has to be polite to his patient; he must be willing to answer all his questions”.

(Bác sĩ phi lch s vi bnh nhân, và phi sn sàng tr li câu hi ca h).

        Hin nay, nói như thế b gán cho ti ‘sexist’ (kỳ th gii tính) và phi viết như sau nếu mun "đúng đường li" (PC, politically correct):

“A doctor has to be polite to his or her patients; he or she must be willing to answer his or her questions.”(6)

        Gn đây ngôi v "T Anh ng ca năm 2015" được hi American Dialect Society (Hi Phương Ng Hoa Kỳ) là t "THEY" đ thay thế cho he/she ("he" hay "she") lúc người ta mun nhc đến mt nhân vt th ba mà không cn ch rõ là nam hay n gii.(7)

        Do đó, câu trên đi là:

“A doctor has to be polite to their patients; they must be willing to answer to their questions”

Xưng hô theo hoàn cảnh:

        Nói chung, xưng hô được quyết đnh do vai vế trong gia đình, gia tc, tui tác và đa v xã hi. Hin nay, đơn v gia đình tht s sinh hot vi nhau càng ngày càng nh li (v chng, có con hay không, trong thi lượng khá gii hn, vì hai v chng đu đi làm, có khi đi sm v khuya trong các ngh như làm tim ăn, làm nail, làm y tá); con cái thì ng sm, dy sm cho kp xe bus ca trường hc. Ít tương tác vi nhau thì tương quan cũng nht đi, vai trò trong tp th nh đó cũng ít đnh hình rõ rt, vai vế cũng lu m đi. Ví d, cô v ln tui hơn chng, hc cao hơn chng, làm nhiu tin hơn chng có mun t xưng là em không? Ông chng hin nay xem v là người ngang hàng, mi vic gì cũng chia nhau mà làm, t ra chén cho đến cho con bú, còn thy t tin đ đ xưng mình là anh hay không?

         Mt s cp sng vi nhau lâu trong tương quan bình đng, bên "tám lng, bên na cân " như thế cui cùng gi chng là "ông", gi v là "bà", có l là gi theo cháu, hay là gi "má thng cu Tý", "má xp nh", "ba thng Tèo", đ cho nó tin, mà cũng tránh không mun biu l tình cm cá nhân ra ngoài như lúc gi bng "mình".

         Mt tiếng hơi ging "mình" là "min" ca vùng Ngh An, Hà Tnh, ví d trong chuyn Kiu, đon Tú Bà tc gin chng đã chăn gi vi Thuý Kiu:

"Này này s đã qu nhiên (câu 844), 

Thôi đà cướp sng chng min đi ri!" (câu 845); 

Hay Nguyn Đình Chiu "Min đy chng phi các thy".

         Nh ngày xưa, trong báo Ph Thông ca Nguyn V có mc "Mình ơi", trong đó bà v nêu lên vn đ nào đó mun tìm hiu, kêu "Mình ơi!", và Ông Tú, nhân vt chng chuyn gì cũng biết, cáu nhàu yêu "Li mình ơi!" và bt đu đóng vai ông thy dy d cho v...Bây gi, chc không có chuyn như vy na. Quý cô hc gii hơn quý cu trong các đi hc và ít còn tuỳ thuc vào các đng nam nhi như ngày xưa.

         Mt tương quan khác cũng khó gii quyết là lúc người tr nói chuyn vi người ln tui hơn. Bây gi thì người trên trung niên đi đâu cũng được gi là chú. Ngày xưa, nếu người đi din già hơn ba mình thì các người tr được dy dùng t "bác", nếu tr hơn cha gi bng chú. Tuy nhiên có nhiu người chê t "chú" nên trong mt s hoàn cnh, người tr có th thy gi bng "bác" cho chc ăn, dù người đó có v bng vai chú mình thôi. Ngược li, nhiu người li thc mc "đng gi anh bng chú", vi nhiu hu ý khác nhau, hoc h mun thy mình tr hơn (x M này, người ta s già lm), hoc h mun gn gũi hơn vi người tr.

        Xưng hô gia thy giáo và hc trò trong trường hc đôi khi cũng gp khó khăn. Theo mt bài trong báo Thanh Niên, có thy giáo dy các em tiu hc mà xưng ‘tôi’, gi các em là "các anh các ch", dy trung hc ch hơn hc sinh vài tui mà xưng là “thy, cô” và gi hc trò là “các con”, hay có thy xưng là “mình” và gi trò "các bn", và cui cùng còn có thy còn c gng thân mt xưng hô "mày-tao" vi hc trò. Bài báo cho rng xưng hô vi hc trò vn là "mt ngh thut", và do tình trng phc tp ca các đi danh t nhân xưng ca tiếng Vit, có v như các trường hp thy cô "lch chun" vn s xy ra vì chưa có chun nào được xác đnh cho mi trường hp.(8-9)

          Xưng hô cũng tr thành rc ri vi mt s bc tu hành. Ví d mt s linh mc hin nay khiêm nhường t xưng là "con", nht là nói vi người ln tui hơn, trong lúc người kia cũng xưng mình là "con" và gi v linh mc là "Cha". Ngày xưa, trong sách v các nhà sư t xưng là "bn tăng" (sư nghèo), hin nay hình như xưng tôi.

          Bác sĩ cũng v thế xưng hô khó gii quyết. Trong các phim Vit Nam, tôi nghe người bác sĩ tr xưng là "em" vi bnh nhân. Không biết có ph biến hay không, nhưng có v không "chuyên nghip" lm, vì Vit Nam vn đ cao câu " Lương Y Như T Mu" (người cha bnh nhn vai trò người m săn sóc con) được treo khp nơi, và ngoài ra tương quan bác sĩ-bnh nhân đòi hi mt khong cách và đôi khi mt lượng thm quyn cn thiết.

Xưng hô trong lịch sử:

        Ở Min Nam trước đây, đôi khi người ta dùng t "ngài" trong mt s trường hp đc bit rt trnh trng. "Ngài" được dùng đ nói vi hoc nói v bc đáng kính, ví d "thưa ngài". Trong cách viết ca ch nôm, ch nhân [người] được ghép vi 1/2 ch "ngi"( trong tr ngi, ngp ngng) ca ch Hán. (Trn văn Kim). Na thế k trước, nghe nói Tng thng Ngô Đình Dim rt trng các trí thc cao cp và hình như gi mt giáo sư trường Đi hc lut là "ngài". Ngày xưa "ngài" cũng được dùng cho vua chúa, hay thn thánh. Hin nay, Vit Nam có v dùng "ngài" đ dch "Sir", t đi s cho đến tng thng trong văn kin chính thc, tương t như Your Excellency, Your Eminence (ví d "Ngài Obama"). My chc năm gn đây, gii khoa bng Vit nam n r lên, rt có nhiu người có bng cp hu đi hc (sau c nhân) hơn trước, c chc ngàn Giáo sư, có trên hai chc ngàn tiến sĩ và có l còn nhiu thc sĩ hơn na. Các v này cũng xut hin trên truyn thông nhiu hơn và cách xưng hô cũng trnh trng hơn trước nhiu, ví d bt đu câu hi bng "Thưa Giáo sư Tiến sĩ, thưa Tiến sĩ XXX...".

        Trong lãnh vc chính tr, cách chúng ta gi nhau cũng thay đi vi ý thc chính tr,nht là v ý thc "quc gia", đc lp. Trong bài quc ca ca VNCH, đt tên là "Tiếng gi công dân" (1948, chính ph Nguyn văn Xuân), chúng ta bt đu gi nhau là "công dân". Bt đu bài hát "Này công dân ơi, quc gia đến ngày gii phóng/ hay đng lên đáp li sông núi..." thế vào câu "này sinh viên ơi, quc gia đến ngày gii phóng" trong nguyên bn "Sinh viên hành khúc/ La marche des étudiants" (hay “Thanh niên hành khúc”) nhc ca Lưu Hu Phước, li ca Mai Văn B (1939):

Này sinh viên ơi! Đng lên đáp li sông núi!..

        T Pháp "citoyen" (tiếng Anh là citizen), nguyên gc có nghĩa là người dân thành ph, được dùng sau cách mng Bastille (1789) vì người ta mun loi b các chc tước ca vua chúa hay quý tc. Đng thi, nhng người theo ch nghĩa xã hi Pháp bt đu dùng "camarade" (bn, bn cùng lp) cho nghĩa mang màu sc chính tr, đ biu l bình đng và đoàn kết. Sau này, cách mng ca người Bolshevik dùng li danh t này trong khung cnh ca xã hi mi ca Nga, t b quý tc và giai cp ca chế đ Nga hoàng b lt đ. T đng chí có l được Trung Cng dùng sau đó và ph biến qua Vit Nam. Tuy nhiên, theo wikipedia, Liên xô, trái vi các tài liu, phim nh tây phương cho thy, "Tovaritch" ch được dùng gii hn trong nhng trường hp chính thc nhưng chí đi tá", các bài din văn. Người ta gi nhau là "anh ch" nhiu hơn ("jeune homme/femme")... Còn nh, nhng ngày đu sau 30 tháng 4 năm 1975, mt s người "bé cái lm" lúc gp các cán b, b đi và gi h là "đng chí", b h sa sai li ngay. Phi gi là “cán b”.

         David G. Marr, tác gi người M ca cun sách "Xét XTruyn Thng Vit Nam, 1920-1945" (Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945; University of California Press) nói v chuyn biến ca xã hi nước ta trong các thp niên chun b ý thc chính tr và văn hoá cho phong trào dành đc lp năm 1945 khi chiến tranh thế gii th 2 sp chm dt và thiết lp mt trt t mi Á châu.

         Ông bàn k v vn đ xưng hô này và din biến các thay đi đưa đến li xưng hô ph biến hin nay (trang 172-175). Theo Marr, tiếng Vit có đc đim không có t tương t như "you" và người ta tránh nhc đến bn thân người nói là "I". Lúc nhng trí thc Vit đt vn đ vi các truyn thng, h mun dùng ngôn ng như là mt dng c đ hoc 'c chế hoc khơi đng các biến đi xã hi". Do đó, mt tác gi tr Trn Huy Liu nhn xét người ta coi thường, khinh khi nhng người nông dân là "k" (? ví d k chân lm tay bùn), người th b gi là "chú' (em cha) (?vd chú th n), và t hơn na, người buôn bán thì kêu h là "con" (có l như trong"con buôn"). Trong khi đó, thì v các ông đ nay đã hết thi cũng còn được gi là "bà" (grandmother) hay cô (paternal aunt). Phan Khôi thì đưa ra gi thuyết là ngày xưa, người Vit gi nhau là "mày, tao", nhưng vì giai cp xã hi phân hoá và người ta "phú quý sinh l nghĩa" nên cách xưng hô mi tr thành phc tp như vy. Phan Khôi đ ngh mt s bin pháp gii hn, như dùng ch "tôi" nhiu hơn (trong quá kh "tôi" ca tương quan vua-tôi), gii hn "nó" cho thú vt, không dùng cho người vì nó có ý khinh mit (derogatory), và dùng t "h" (ch gia đình, dòng h) đ mô t người ngôi th 3 s nhiu (they). Không ti chc năm sau, hai trong ba đ ngh này được gii văn chương dùng ph biến ("tôi" và "h").

         Theo Marr, t "dân" trước đây dùng đ ch "con dân" là con cái ca người cai tr, vua chúa cai tr, và được hiu rng ra đ ch người dân ca mt nước, quc gia hin đi (citizens of a modern state). Người Pháp bt đu dùng t "dân" và "công dân" mi được chế ra (citizen ; trong tiếng Pháp là citoyen) đ thúc dc người Vit đóng thuế và tôn trng lut pháp thuc đa. Mt quan chc quan trng người Pháp son mt cm nang ta đ "Dân quê nên biết" và vì không biết dch ch đi danh t "you/vous" ra sao, ông ta gi nhng người ngày bng t "người" (tương đi vô hi v chính tr, "politically neutral"), nhưng có lúc ông cũng l li gi h là "người nhà quê", theo tác gi có ý nghĩa mit th. Ngược li, theo phân tích ca tác gi, lúc mun ly lòng các tinh hoa đa phương đ h đng ý dùng qu ca làng xây trường tiu hc thuc đa, các v này được gi là các bc "lão thành" (tác gi dch là “old and wise”) hay "tiên sinh" (sir). Theo Marr, lúc phát biu nơi công cng, dùng "ông bà", kèm theo các thưa gi khác nếu cn, tuỳ theo c to; các din gi khác mun có v "dân ch " hơn thì nói "anh ch em" hay "các bn". T tháng 8, 1945, danh tng chí" được dùng ph biến ra ngoài phm vi các đng viên đng Cng Sn, tương t như t "citoyen" (công dân) được người Pháp dùng ph biến gi nhau sau cách mng Bastille 1789. Có lúc "đng chí" được kèm thêm mt t "anh" tr thành "anh đng chí", mt hình thc mà Marr mô t là "ritualized character" (có tính cách nghi l, trnh trng hơn, không bình dân bình đng nhưng chí"). Riêng H Chí Minh (sinh 1890) thì xưng mình là “bác”, Tng thng N. Đ. Dim cũng như TT Nguyn Văn Thiu đu xưng là "tôi".

         Bà Nguyn Đc Nhun ("Tôi hay là em?" Ph N Tân Văn, 25/9/1930) đ ngh ph n không t xưng là "em", "con" hay "t" na, mà là "ta" (hơi kiêu căng) hay 'tôi" có th d chp nhn hơn. Các n sĩ bt đu dùng "tôi" trong khi viết, tuy nhiên trong gia đình "em" vn thnh hành. Dù sao thì cuc tranh lun cũng giúp cho các cp v chng nh nhàng vi nhau hơn trong li nói. Đng Văn By trong bài "Nam n bình quyn" (Saigon 1928) khuyên các ông chng đng "mày, tao" vi v na, và nếu được vy, mong rng các bà không còn nhc đến ông chng mình là 'nó" hay "thng đó" na.

          Mt đ ngh khác ca Phan Khôi trong giai đon này khá thú v, được các văn gia áp dng trong gia đon cui thp niên 1930, và được Marr nhc đến. Phan Khôi ch trích cách hc gi và s gia phân bit chính và tà, gi nhng người 'tt" là "ông", còn nhng k b phê phán th b gi trng bng tên, hay t hơn gi bng "thng". Phan Khôi đ ngh ch dùng tên thôi, chng ông mà cũng chng thng, đ bình đng và không thiên v, đ đc gi t mình phán xét. Đáng chú ý, là trong my chc năm gn đây, ngôn ng "ông" và "thng" đ phân bit phe ta, phe nó được dùng thnh hành Vit Nam, mc dù báo chí thế gii, không hn mà gp đi theo hướng nhìn ca nhà cách mng văn hoá ca Vit Nam gn mt thế k trước (ví d h ch nói Barack Obama, Hillary Clinton, không dùng Mr. hay Mrs). Hy vng đ ngh bình đng hoá, không thiên v ca Phan Khôi s được xét thêm mt ln na và dùng li Vit nam mt cách ph cp. 



“Cái tôi đáng ghét": 

          Mt khía cnh khác qua vn đ này là người Vit chúng ta có khuynh hướng tránh dùng ch tôi. Tiếng Pháp có câu “Cái tôi đáng ghét" (Le moi est haissable) do Blaise Pascal, nhà triết hc và toán hc Pháp thế k th 17 đã tng nói đ ch trích thói t chiêm ngưỡng ca người đi (narcissism). T đó cũng có th hiu thành "Ch tôi đáng ghét" và do đó mt cái lut, có th bt thành văn, là tránh dùng ch "tôi", và có th câu nói này đã nh hưởng đến cách ăn nói ca chúng ta cho đến nay. Hin nay, mt s người viết tiếng Vit không dùng t "tôi" mà xưng là "k viết bài này" hay "tác gi bài này" đ ch chính mình. Mt li khác là dùng ch "chúng tôi" trong lúc người viết hay người nói ch là mt người thôi nghĩa là s ít. Ví d, trong mt chương trình ca nhc Vit Nam ti M, người điu khin chương trình trong tui 70, có l theo xưa, t gii thiu: "Chúng tôi là N.L." trong khi đó, M, mt bác sĩ s thường t gii thiu là "My name is Dr. X" (Tôi là Bác sĩ X).

         Theo t đin wikipedia tiếng Pháp, ch "nous" (chúng tôi) ch dùng cho ngôi th nht, s ít thay cho "tôi" (je, premiere personne, singulier) trong hai trường hp:

1) S ít cho vua chúa dùng (singulier de majesté).

2) S ít khiêm tn (singulier de modestie)

         Trong tiếng La-tinh, ch "nous" li được dùng đ chng t s khiêm tn; cũng được các tác gi phái n dùng trong văn chương hin nay đ nh bt câu văn. (10)

         Trong quá kh, ngôi th nht "I" hay "we" cũng được thế bng cm t “the authors” ("tác gi”) trong mt s ln các bài khoa hc tiếng Anh đ có v khách quan hơn; ví d: “The authors performed the essay” thay vì “We performed this assay”. Trong cách viết văn ca người M hin nay, vì mun thành tht và gin d, h dùng thng đi danh t s ngôi th nht là “I”, “we” và không bóng gió như kiu xưa na, mc dù mt s người vn ch trương khoa hc là khoa hc khách quan, không nên đ lt cái "tôi" hay "chúng tôi" ch quan ca tác gi vào đó, tr nhng lúc bin lun mun nêu ý kiến cá nhân.(10)

          Thi còn nhiu nh hưởng Pháp 40-50 năm trước, các người gii tây hc hay xưng "moi" (tôi), "toi", "lui” (đc theo Vit Nam là "lu" ) hay "elle" (n) va làm ch t hay túc t. Ví d: “Hôm qua, moi đi do Catinat, có thy toa đi chơi vi bn gái, toi biết n t hi nào vy? “ Bây gi nhiu người tr gi nhau bng "you" hay "me"; ví d: "Hôm qua, “mi” không có nhà, you có gi cho mi phi không?. Mt s khác thì dch là "mày tao", không k vai vế; ví d "Hôm qua thng boss nó khen tao, nó nói "mày làm vic gii quá, tao s cho mày lên lương." Chúng ta có th bc mình, và có lúc còn mun nhy ra sa sai. Tuy nhiên, nghe mãi cũng thành quen, và tht ra nếu gii thích cho người tr hiu ti sao không nên nói như vy thì rc ri và dài dòng quá. Cũng trong ng cnh này, tôi nhn thy trong các phim Vit Nam, các người tr dùng "cu" đ xưng hô vi nhau, bt k trai gái, tuy rng hình như ch dùng min Bc.

         Nói tóm li, ngay t nhng ngày đu thế k th 20 lúc mà ch "Quc ng" dùng mu t la-tinh gn như hoàn toàn thay thế ch Hán, và người Vit đã tng tìm kiếm nhng li din t mi và gin d hơn đ thích ng vi xã hi dân ch và văn hoá giao tiếp mi. Phan Khôi là mt trong nhng người tiên phong vi thành qu ca tiếng xưng "tôi" và "h" trong ngôn ng thường ngày hin nay.

          Tuy nhiên, tôi nghĩ ch "tôi" hay "chúng tôi" chưa hoàn toàn đt được tính cách trung lp, không nhum màu ngôi th, giai cp, tui tác ca các đi danh t ‘I’, ‘me’, ‘we’,’us’, ‘you’, ‘they’... trong tiếng Anh, ‘je’,’moi’, ‘nous’, trong tiếng Pháp, hay nhng t tương t mà nhng tiếng quan trng khác như tiếng Hoa, tiếng Spanish (‘yo’, ‘nosotros’), tiếng Nga (я, мы) đu có. Mt s người tr gc Vit M dùng t "mình" trong mc đích này (cho ‘I’ ‘we’), mt cách tình c không c ý. Tt nhiên, đi vi thế h ln hơn, ‘mình’ có v gn gi, thân thin không đúng ch trong mt s hoàn cnh. Biết đâu, dn dn, nếu dùng nhiu, chúng ta s quen vi 'mình' thôi, như ngày xưa chúng ta t t chp nhn tiếng ‘tôi’.

          Mt cách đơn gin và có v có cơ may được áp dng d dàng là dùng tiếng Esperanto đ gii quyết. Ngôn ng nhân to này do mt bác sĩ chuyên khoa mt người Do Thái công b năm 1887, hin nay được chng 20 triu người dùng như mt "ngôn ng quc tế ph" (constructed international auxiliary language). Trong Esperanto: tôi=mi, anh, ch, ông, bà (you)=vi, nó (he)=li; nàng, cô, y (she)=ŝi, we=ni, vv.. "I love you" s thành "mi amas vin". Trong tiếng Vit, các cô các cu s nói câu này mà không cn phân chia già tr, gii tính, đng tính hay transexual, hp vi xã hi hin nay: "Mi yêu vin"!

          Nhìn vn đ mt cách khác, ngôn ng Vit s có đi sng riêng ca nó và vài chc năm na s gii quyết các nhu cu riêng ca mình theo cách riêng ca đi đa s người nói tiếng Vit Vit Nam. Cách dùng đi t danh xưng ca hai cường quc Á đông lân cn, Nht cũng như Hàn quc, có nhiu đim tương đng vi tiếng Vit. H cũng phi thích ng vi nhng tình hung ngôn ng mi do hi nhp vào thế gii "phng" hin nay mà Anh ng ng tr. Có th chúng ta s tham kho kinh nghim ca Nht và Hàn trong lúc tìm nhng li nói mi cho tiếng Vit.

         Tuy nhiên trước mt, người Vit dùng nhiu th tiếng, người trong nước hc tiếng Anh, Nht, Hàn, vv…; báo chí trong nước dch ào t hàng ngày các tin tc tiếng Anh, Hoa; lng tiếng các phim Hàn quc, Hoa ng; người Vit ngoi quc dch các sách, bài v tiếng Anh, Pháp ra Vit ng, hoc đem nhng ý nim nguyên thu t ngoi ng cho người đc hay thính gi tiếng Vit. 

         Trong Anh ng, gn đây, người ta nói v "metalinguistic awareness", mt s ý thc v kh năng suy nghĩ v ý nghĩa ca ngôn ng trong tương quan gia nó vi nhng yếu t văn hóa khác ca xã hi. Nhng cơ hi đó càng ngày càng tăng "ý thc siêu ngôn ng hc" trong người dùng tiếng Vit. Chúng ta so sánh nhiu hơn tiếng m đ vi các th tiếng khác nht là tiếng Anh, do đó chúng ta tìm nhng gii pháp không phi đ "ci thin" tiêng Vit, mà đúng hơn, giúp cho tiếng Vit, cũng như văn hoá Vit gn lin vi nó, hi nhp d dàng hơn vi ngôn ng và văn hóa thế gii.

Tác giả: Bác sĩ HỒ VAN HIỀN

                                                            *

Sưu tầm, trình bày và phổ biến: HỒ XƯA__________________________


1 nhận xét:

VỠ MẢNH TRĂNG THỀ _ Thơ Songquang và Bài Họa Của Các Thi Hửu

VỠ MẢNH TRĂNG THỀ (cho nhớ ngày giỗ lần 2 hiền thê) Thu nao em đã bỏ anh rồi! Một mảnh trăng thề vội lẻ đôi Tình đó đã sâu giờ cách biệt Ngh...