Thứ Tư, 22 tháng 12, 2021

NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ (2)

 

                                                     Thanh ca uyển chuyển tần liên tử,
                                                             Cựu khúc y hi tối NÃO NÙNG !                                    
      
     Đó là hai câu thơ trong một liên khúc gồm ba mươi bài KHIỂN SẦU 遣愁 của Hiếu Liêm Ngô Lan Thạch 吳蘭石 làm tặng cho người đẹp mà cũng là nữ tài danh Hà Lan Sơ 何蘭初 của đất kinh thành :

               清歌宛轉頻憐子,  Thanh ca uyển chuyển tần liên tử,
               舊曲依稀最惱儂。  Cựu khúc y hi tối NÃO NÙNG !
    Có nghĩa :
            - Giọng ca trong trẻo bổng trầm khiến ta thường nhớ đến nàng,
            - Khúc hát xưa văng vẳng bên tai làm cho lòng ta ray rức mãi.
    Lục bát :
                   Tiếng ca thanh thoát nhớ người,
                 Khúc xưa văng vẳng bồi hồi lòng ta !

    - NÃO 惱 : là Phiền Não, là Buồn phiền. Động từ có nghĩa là "Làm cho buồn lòng; làm cho ray rức". Trong Truyện Kiều khi tả tài đàn Hồ cầm của Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du đạ viết :

                         Khúc nhà tay lựa nên chương,
                  Một thiên bạc mệnh lại càng NÃO NHÂN.

     Rồi khi Kim Trọng phải đi Liêu Dương hộ tang chú, Kim Kiều lại phải chia tay, cụ Nguyễn Du lại viết :
                        NÃO NGƯỜI cử gió tuần mưa,
                  Một ngày nặng gánh tương tư một ngày !

       NÃO NGƯỜI, NÃO NHÂN gì đều có nghĩa là "Làm cho người ta cảm thấy buồn da diết". Còn...
     - NÙNG 儂 : là Tôi, ta (đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất dùng trong văn thơ cũ): Đạo Tử Hàm viết : Nùng tri nùng tri 道子頷曰:儂知儂知. Đạo Tử Hàm nói: Ta biết, ta biết (Tấn thư: Võ Thập Tam Ngũ truyện).     
     - Trong bài thơ "TÁNG HOA NGÂM 葬花吟" của người đẹp Lâm Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần cũng có 2 câu nổi tiếng sau đây :

                 儂今葬花人笑痴,  NÙNG kim táng hoa nhân tiếu si,
                 他年葬儂知是誰?  Tha niên táng NÙNG tri thị thùy ?
   Có nghĩa :
            - Nay TA chôn hoa người cười ta ngây dại...
            - Đến năm nào đó chôn TA biết có ai đây ?
   Lục bát :
                   Chôn hoa người nhạo TA si,
                Chôn TA biết có ai vì TA không ?

           Inline image
     Nên...
    - NÃO NÙNG 惱儂 : Nghĩa đen thui là "Làm cho tôi buồn; khiến cho ta sầu". Nhưng từ NÃO NÙNG trước mắt thường được sử dụng như một Hình Dung từ  (Tính từ), có nghĩa : Buồn bã, da diết, âu sầu, buồn đau tê tái và day dứt... Như khi nghe Thúy Kiều đàn khi Kim Kiều tái hợp, cụ Nguyễn Du đã viết :
                                Lọt tai nghe suốt năm cung,
                        Tiếng nào là chẳng NÃO NÙNG xôn xao.
         
    Nhớ hồi năm một ngàn chín trăm... hồi đó (khoảng 1969-1970) với lệnh Tổng Động Viên sau Tết Mậu Thân, tôi tình nguyện vào Không Quân làm chuyên viên điện ảnh. Một hôm đi theo thằng bạn cùng khóa đến nhà nó chơi, khi đang ngồi ở phòng khách, chợt nghe tiếng máy hát vang lên giọng hát trầm buồn liêu trai của nữ ca sĩ Thanh Thúy hát bài Xuôi Giòng của Tô Thùy Anh:"...Em cất tiếng ca NÃO NÙNG..." Tôi chợt phá lên cười lớn, khiến thằng bạn tròn xoe mắt ngạc nhiên hỏi "tại sao ?". Mới hôm qua tôi vừa đọc bài thơ Khiển Sầu nêu trên, nên biết "NÃO NÙNG có nghĩa là làm cho tôi buồn". Bây giờ nghe Thanh Thúy hát "... Em cất tiếng ca LÀM CHO EM BUỒN..." nên tôi mắc cười vì nghĩ Thanh Thúy đã hát sai. Tôi bèn đọc lại 2 câu thơ chữ Nho nêu trên, và giải nghĩa cho thằng bạn Không Quân chung khóa biết xuất xứ và nghĩa gốc của từ "NÃO NÙNG". Chẳng những nó phục tôi sát đất mà cô chị đẹp của nó đang nghe nhạc ở phòng kế bên "nghe lén" lời giải thích, cũng rất ngưỡng mộ tôi, nên thời gian sau đó cứ bảo nó rủ tôi về nhà chơi hoài ! Xém chút nữa thì ...
     Ngựa non háu đá, lúc đó tôi cứ nghĩ là nhạc sĩ Tô Thùy Anh đã dùng sai từ, chứ đâu có biết rằng từ NÃO NÙNG đã đi vào ngôn ngữ hiện tại như một Tính từ chứ đâu có ai còn biết và sử dụng theo nghĩa gốc của NÓ nữa đâu !
                    
       Sau đây là những từ ngữ mà ta rất thường sử dụng, nhưng chỉ sử dụng theo thói quen mà không ngờ là mình đã dịch nghĩa của nó rồi. Ví dụ như :

    - THIẾT TƯỞNG 竊想 : THIẾT có bộ HUYỆT 穴 là Hang ở phía trên, hàm ý là "đào hang khoét vách vào nhà người khác để ăn trôm. Nên THIẾT là Trộm cắp. Còn TƯỞNG có bộ TÂM là Lòng bên dưới, nên có nghĩa là Nghĩ (đến ai đó, hay việc gì đó...). Nên...
     THIẾT TƯỞNG 竊想 hay TRỘM NGHĨ là : Len lén nghĩ về việc gì đó ! Đây là từ lịch sự, thường dùng để bày tỏ sự suy nghĩ hay ý kiến của mình một cách khiêm nhượng về vấn đề gì đó, như :
    - Tôi Thiết Tưởng là... hay Thiết Tưởng...
    - Tôi Trộm Nghĩ là... hay Trộm  nghĩ...

     THIẾT TƯỞNG là chữ Nho có âm Việt Hán; TRỘM NGHĨ là từ Nôm dịch từ từ THIẾT TƯỞNG; nên TRỘM NGHĨ là THIẾT TƯỞNG và THIẾT TƯỞNg chính là TRỘM NGHĨ !

     Ngoài ra, ta còn có rất nhiều từ TRỘM mà không phải là Trộm Cắp gì cả, như :

   - TRỘM NGHE : là chỉ nghe tin đồn mà chưa chính xác, chưa chắc chắn, như Kim Trọng nghe đồn rằng mình có hai cô hàng xóm thơm phức mà không biết có đúng hay không :

                      TRỘM NGHE thơm nứt hương lân,
                   Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
               (HƯƠNG LÂN 香鄰 là cô hàng xóm thơm phức !)

   - TRỘM NHÌN : là Len lén nhìn, âm thầm mà nhìn, như lời bài hát TRỘM NHÌN NHAU của Trầm Tử Thiêng :
                 ... Đôi khi trộm nhìn em
                     Xem dung nhan đó bây giờ ra sao...

                  ... Hôm nao em trộm nhìn anh
                      Xem đôi tay trắng phong trần năm xưa...

       Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc "Trộm Nhìn Em" của Trầm Tử Thiêng :


   - TRỘM NHỚ : là Lén nhớ ai đó mà không biết người ta có nhớ mình không. Từ này hay đi chung với THẦM YÊU, như nỗi lòng của Kim Trọng đối với hai cô hàng xóm Thúy Vân và Thúy Kiều vậy :

                      Nước non cách mấy buồng thêu,
                Những là TRỘM NHỚ THẦM YÊU chốc mòng.

     Tương tự, ngoài THIẾT TƯỞNG là TRỘM NGHĨ ra, ta còn có từ THIỂN Ý :

   - THIỂN 淺 : Có ba chấm thủy 氵bên trái, nên THIỂN có nghĩa là nơi nước cạn.
                      Như THIỂN CẬN 淺近 là Nông cạn, chỉ nơi nước không sâu.
   - Ý 意 : Có bộ TÂM 心 là Lòng ở bên dưới, nên Ý là TÂM Ý 心意 là những điều mà ta đang 
              nghĩ ở trong lòng. Nên...
     THIỂN Ý 淺意 : là Ý kiến nông cạn; là Suy nghĩ nông cạn. Đây cũng là từ khiêm tốn để bày tỏ ý kiến hay sự suy nghĩ của mình một cách lịch sự. Như...

     - Theo THIỂN Ý ... Có nghĩa là :
       Theo ý kiến nông cạn của tôi...; Theo sự suy nghĩ nông cạn của tôi...
    Còn...
    - Theo NGU Ý 愚意 là "Theo ý kiến ngu muội của tôi..." hay "Theo sự suy nghĩ ngu muội của tôi..." Từ nầy có vẻ Khiêm tốn quá đáng một chút, nhưng cũng rất thường được sử dụng trong văn viết.
      Trái với NGU Ý là CAO KIẾN...
   - CAO KIẾN 高見 : là Ý kiến cao siêu, chỉ Ý kiến hay ho, khác thường, vượt trội... Thường dùng để chỉ "ý kiến của người khác" theo phép lịch sự trong giao tiếp, như :
         - Xin cho biết CAO KIẾN !
         - Xin cho nghe CAO KIẾN của bác ạ !
         - Theo CAO KIẾN của anh thì phải như thế nào !?...

      Sau khi bài (1) gởi đi, thì có ngay một phản hồi như sau :

"...Sẵn đây xin bạn giảng cho tôi hiểu về 2 chữ “Thuyền quyên và Thục nữ “ chỉ về người con gái như thế nào ? Thuyền quyên có phải là tiếng Nôm còn Thục nữ có phải là Hán tự không ?"

     THUYỀN QUYÊN và THỤC NỮ đều là từ Hán Việt có ý nghĩa như sau :

   - THUYỀN QUYÊN Có ba ý nghĩa sau đây :
     * THUYỀN QUYÊN 嬋娟 là tên của một thị nữ và là học trò của nhà thơ yêu nước Tam Lư Đại Phu Khuất Nguyên 屈原 nước Sở. Vì Khuất Nguyên chủ trương chống hủ bại để thi hành chính sách nhân đạo; Sở Hoài Vương không theo, lại nghe theo lời dèm xiểm của phe bảo thủ giam lỏng Khuất Nguyên ở nhà Thái miếu. Thuyền Quyên đi tìm Khuất Nguyên khắp nơi, đến khi tìm gặp được thầy ở nhà Thái miếu thì đã sức mỏn hơi tàn. Khuất Nguyên bèn lấy rượu của Sở Hoài Vương ban cho nàng uống, nào ngờ đó là rượu độc, Thuyền Quyên đã chết thay cho thầy. Khuất Nguyên bi phẩn ngâm to bài Thiên Vấn 天問 (Hỏi Trời : Một bài thơ trường thiên nổi tiếng của Khuất Nguyên) rồi lấy gấm lụa đắp cho Thuyền Quyên. Lính canh giữ Khuất Nguyên cảm động cứu ông ra ngoài rồi nổi lửa đốt nhà Thái miếu.

    * THUYỀN QUYÊN 嬋娟 là Người Đẹp có thân hình thướt tha ẻo lả, như trong "Thuyền Quyên thiên 嬋娟篇" của Thi Tù Mạnh Giao đời Đường :
 
                花嬋娟,泛春泉。    Hoa Thuyền Quyên, phiếm xuân tuyền.
                竹嬋娟,籠曉煙。    Trúc Thuyền Quyên, Lung hiểu yên.
                妓嬋娟,不長妍。    Kỹ Thuyền Quyên, bất trường nghiên.
                月嬋娟,真可憐。    Nguyệt Thuyền Quyên, chơn khả liên !
     Có nghĩa :
                Suối xuân hoa nổi Thuyền Quyên,
                Chập chờn trúc sớm nghiêng nghiêng mơ màng.
                Kỹ Thuyền Quyên chẳng cao sang,
                Nguyệt Thuyền Quyên tỏa ánh vàng dễ thương !

           Inline image

    * THUYỀN QUYÊN 嬋娟 là ánh trăng , là mặt trăng. Như hai câu cuối trong bài từ "Thủy Điệu Ca Đầu 水調歌頭"của Tô Đông Pha đời Tống là :

                但願人長久,     Đản nguyện nhân trường cửu,
                千里共嬋娟.     Thiên lý cộng Thuyền Quyên !
     Có nghĩa :
                 Mong sao người được dài lâu,
                 Bóng trăng ngàn dặm trên đầu cùng soi !

Còn...
   * THỤC NỮ 淑女 : THỤC là HIỀN THỤC 賢淑, nên THỤC NỮ là Người con gái hiền thục, nết na, đằm thắm, chớ "chưa chắc đã đẹp". Nếu thêm vào hai chữ Yểu Điệu phía trước thành YÊU ĐIỆU THỤC NỮ 窈窕淑女 thì có nghĩa là "Người con gái hiền thục có thân hình yểu điệu ẻo lả, tức là có thân hình đẹp mà thôi" chứ chưa chắc gương mặt đã đẹp. Nhưng theo diễn tiến của ngữ nghĩa cho đến hiện nay, cứ nhắc đến 4 chữ YÊU ĐIỆU THỤC NỮ thì người ta sẽ nghĩ ngay đó là "Cô gái vừa đẹp vừa nết na"; có thể do ảnh hưởng của bài thơ "Quan Thư" thiên "Chu Nam" trong Kinh Thi 詩經-周南·關雎 mà ra :

                 關關雎鳩,  Quan quan thư cưu,
                 在河之洲。  Tại hà chi châu.
                 窈窕淑女,  YÊU ĐIỆU THỤC NỮ
                 君子好逑。  Quân tử hảo cầu.
Có nghĩa :
            Inline image

                 Chim Cưu lội nước oang oang,
                 Kêu từ cồn bãi kêu sang bến bờ.
                 Yểu điệu thục nữ đào tơ,
                 Cùng người Quân Tử đợi chờ sánh đôi !

 Nên...
       THUYỀN QUYÊN là cô gái vừa có thân hình đẹp lại vừa có khuôn mặt đẹp như trăng; Còn THỤC NỮ chỉ là người con gái hiền thục đoan chính mà thôi. Sẵn ta đề cặp luôn đến từ...

    - HỒNG NHAN 紅顏 : là Dung nhan còn hồng hào; Từ nầy có 2 nghĩa trong văn học cổ :
       * Chỉ chung cho tuổi còn trẻ, cả nam lẫn nữ khi mặt mũi còn hồng hào, còn trẻ, như trong bài thơ "Tặng Mạnh Hạo Nhiên 贈孟浩然" của Thi Tiên Lý Bạch 李白 với 4 câu đầu như sau : 

                  吾愛孟夫子,  Ngô ái Mạnh phu tử,
                  風流天下聞。  Phong lưu thiên hạ văn. 
                  紅顏棄軒冕,  HỒNG NHAN khí hiên miện,
                  白首臥松雲。  BẠCH THỦ ngọa tòng vân.
   Có nghĩa :
                  Ta yêu ông Mạnh Hạo Nhiên,
                  Phong lưu nổi tiếng khắp thiên hạ nầy.
                  LÚC TRẺ bỏ hết mủ giày,
                  VỀ GIÀ nằm ngắm mây bay núi rừng.

             Inline image
   
      HỒNG NHAN chỉ lúc còn trẻ, BẠCH THỦ là Đầu bạc, chỉ lúc đã về già.
    * HỒNG NHAN là MÁ HỒNG, từ dùng để chỉ người đẹp. Hồng Nhan Đa Truân 紅顏多迍 là Người đẹp hay gặp nhiều truân chiên trắc trở. Ta nói là "Má Hồng Phận Bạc", như lời thơ của cụ Nguyễn Công Trứ vịnh Thúy Kiều :

                         Đã biết MÁ HỒNG thời PHẬN BẠC,
                    Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng..
     
    Ta lại có từ MỸ NHÂN 美人 là người đẹp, ta cũng lại có từ GIAI NHÂN 佳人 cũng là người đẹp. Vậy MỸ NHÂN và GIAI NHÂN khác nhau ở chỗ nào !?

   * MỸ NHÂN 美人 : Chữ MỸ 美 là chữ Hội Ý, gồm có chữ DƯƠNG 羊 là con Dê ở trên, bên dưới là chữ ĐẠI 大 là lớn; với nghĩa Hội Ý : Con dê lớn mập sẽ cho thịt ngon; Trong xã hội du mục ngày xưa, con dê mập lớn là biểu tượng của tốt, của đẹp, của ngon. Trong ngôn ngữ thường ngày ta cũng thường gặp các từ như : Mỹ Hảo 美好 là Tốt đẹp; Mỹ Cảnh 美景 là Cảnh đẹp; Mỹ Vị 美味 là Món ăn ngon... Nên :
   - MỸ NHÂN 美人 : là Người đẹp khoẻ mạnh, có khuôn mặt và ngoại hình đẹp. Như : 
                             Vương Chiêu Quân, Dương Qúy Phi chẳng hạn.
Còn :
   * GIAI NHÂN 佳人 : GIAI cũng là chữ Hội Ý, gồm có bộ NHÂN 亻là người ở bên trái, bên phải là chữ KHUÊ 圭  là một loại đá qúy, là ngọc của Thiên tử ngày xưa ban tặng cho các Chư hầu.  Nên  GIAI NHÂN là chỉ Người con gái trong trắng thuần khiết và đẹp như NGỌC; như Tây Thi, Điêu Thuyền chẳng hạn, và như bài thơ "Lý Diên Niên Ca 李延年歌" trong nhạc phủ đời Hán :

                 北方有佳人,          Bắc phương hữu GIAI NHÂN,
                 絕世而獨立。          Tuyệt thế nhi độc lập.
                 一顧傾人城,          Nhất cố khuynh nhân thành,
                 再顧傾人國。          Tái cố khuynh nhân quốc,
                 寧不知傾城與傾國? Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc ?
                 佳人難再得。         GIAI NHÂN nan tái đắc !
    Có nghĩa :
                 Phương bắc có một giai nhân,
                 Người đẹp tuyệt trần, đời chẳng ai tranh.
                 Nhìn thôi một cái nghiêng thành,
                 Nhìn thêm cái nữa nước thành đều nghiêng.
                 Mặc cho thành nước đều nghiêng,
                 GIAI NHÂN khó gặp ở miền nhân gian !

                Inline image
  
     Ta có thể tạm so sánh một cách lý thú như sau :

     * THUYỀN QUYÊN là MỸ NHÂN có dung nhan kiều diễm và vẻ đẹp rực rỡ dễ làm say đắm lòng người. Còn...
     * THỤC NỮ là GIAI NHÂN có nét đẹp thanh thoat hiền hòa đoan trang và tràn đầy nữ tính.

     Chỉ là phiếm luận cho vui mà thôi, chớ Thuyền Quyên, Thục Nữ, Mỹ Nhân hay Giai Nhân gì đều là những từ ngữ dùng để chỉ người đẹp trong văn học và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta mà thôi !

     Hẹn bài viết tới !

                                                                   杜紹德
                                                              Đỗ Chiêu Đức
   

Mời Xem :Tạp Ghi và Phiếm Luận : NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ (1)


1 nhận xét:

VỠ MẢNH TRĂNG THỀ _ Thơ Songquang và Bài Họa Của Các Thi Hửu

VỠ MẢNH TRĂNG THỀ (cho nhớ ngày giỗ lần 2 hiền thê) Thu nao em đã bỏ anh rồi! Một mảnh trăng thề vội lẻ đôi Tình đó đã sâu giờ cách biệt Ngh...