36. Bài thơ QUÁ BÌNH ĐỘ :
過平渡 QUÁ BÌNH ĐỘ
回峰亂嶂不知年, Hồi phong loạn chướng bất tri niên,
三萬浮生轉燭天。 Tam vạn phù sinh chuyển chúc thiên.
誰是詩眸凝佇處, Thùy thị thi mâu ngưng trữ xứ ?
京師正在夕陽邊。 Kinh sư chính tại tịch dương biên !
* Chú thích :
- QÚA BÌNH ĐỘ 過平渡 : Đi ngang qua bến Bình Độ.
- Hồi Phong Loạn Chướng 回峰亂嶂 : Núi non chằng chịt chập chùng hiễm trở.
- Tam Vạn Phù Sinh 三萬浮生 : TAM VẠN 三萬 là nói gọn của TAM VẠN LỤC THIÊN 三萬六千 là Ba vạn sáu ngàn ngày, chỉ một trăm năm, là đời sống dài nhất của một đời người; còn PHÙ SINH 浮生 là từ của Đạo Gia, Trang Tử 莊子 cho là cuộc sống của người đời vốn trôi nổi vô định; Đạo Phật cũng nói là chúng sinh đều đang chìm nổi trong bể khổ. Nên TAM VẠN PHÙ SINH là chỉ "Kiếp sống trôi nổi của một đời người!".
- Chuyển Chúc Thiên 轉燭天 : CHÚC là ngọn đuốc, nên CHUYỂN CHÚC THIÊN là ngọn đuốc xoay chuyển theo chiều gió ngoài trời, không biết là sẽ tạt về phía nào; Ý chỉ cuộc sống của một đời người là vô định vô thường. Câu nầy lấy ý của một câu trong bài thơ GIAI NHÂN của Đỗ Phủ đời Đường là "
萬事隨轉燭 Vạn sự tùy chuyển chúc
Cónghĩa :
Muôn việc đều tùy theo sự xoay chuyển của ngọn đuốc.
- Thi Mâu 詩眸 : là con mắt của hồn thơ, của nhà thơ.
- Ngưng Trữ 凝佇 : là ngưng đọng lại, dừng lại ở đâu đó.
* Nghĩa bài thơ :
QUA BẾN BÌNH ĐỘ
Những dãy núi cao chằng chịt chập chùng hiễm trở không biết đã có từ năm nào; Làm cho người ta cảm thấy đời người ba vạn sáu ngàn ngày càng nổi trôi vô thường hơn như ngọn đuốc trước gió không biết sẽ cháy về hướng nào. Ai mới là nơi làm cho con mắt của nàng thơ ngưng đọng lại ở nơi đó đây ? Chính là đất kinh sư nơi mà ánh nắng chiều đang chiếu rọi bên kia kià !
* Diễn Nôm :
QUÁ BÌNH ĐỘ
Núi non hiểm trở biết bao ngày,
Ba vạn phù sinh lửa đuốc bay.
Ai đó hồn thơ còn quyến luyến ?
Kinh sư nơi ấy nắng chiều lay !
Lục bát :
Núi non hiễm ác bao năm,
Phù sinh ba vạn như cầm đuốc chơi.
Ai người thơ thẩn là nơi,
Kinh sư nắng chiếu bên trời hoàng hôn !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
37. Bài thơ QUÁ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ :
過興道王祠 QUÁ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ
淅淅風前紅葉樹, Tích tích phong tiền hồng diệp thụ,
悠悠天外白衣雲。 Du du thiên ngoại bạch y vân.
重樓翠宇人何在, Trùng lâu thúy vũ nhân hà tại?
惟見荒山對夕曛。 Duy kiến hoang sơn đối tịch huân.
* Chú thích :
- QUÁ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ 過興道王祠 : Đi ngang qua từ miếu của Hưng Đạo Vương.
- Tích Tích 淅淅 : Từ Tượng Thanh; (gió) Vi Vu, hây hẫy; (nước) Róc rách.
- Du Du 悠悠 : là Dằng dặc, Xa xăm, Bát ngát.
- Trùng Lâu Thúy Vũ 重樓翠宇 : là Lầu đôi gác biếc, Lầu son gác tía. Trong câu chỉ miếu mạo cao lớn đẹp đẽ để thờ Hưng Đạo Đại Vương.
- Tịch Huân 夕曛 : HUÂN là ánh sáng thừa của mặt trời lúc lặn. nên TỊCH HUÂN cũng có nghĩa là Nắng Chiều.
* Nghĩa bài thơ :
QUA ĐỀN HƯNG ĐẠO VƯƠNG
Những cây lá đỏ rụng rơi trước làn gió vi vút thổi, những đóa mây trắng bay bay tận bầu trời xa xăm; Lầu son gác tía còn trơ đây mà người thì giờ đang ở nơi nao ? Chỉ thấy ánh nắng chiều rơi rớt lại trong rừng núi hoang vu mà thôi !
Có xây dựng đình chùa miếu mạo cho cao sang rộng lớn, thì cũng chỉ là hình thức mà thôi, còn người anh hùng thật sự thì cũng đã đi vào thiên cổ rồi ! Chỉ còn lại có núi xanh mây trắng và rừng cây lá đỏ rụng bay lả tả trong nắng chiều cô quạnh mà thôi !
* Diễn Nôm :
QUÁ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ
Vi vút gió về lá đỏ rơi,
Xa xăm mây trắng lượn ven trời.
Lầu son gác tía người đâu tá ?
Chỉ thấy núi rừng nắng chiếu thôi !
Lục bát :
Vi vu gió cuốn lá rơi,
Xa xa mây trắng bên trời nhởn nhơ.
Người đâu lầu các chơ vơ ?
Núi hoang chỉ thấy lơ thơ nắng chiều !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
38. Bài thơ QUÁ PHÙ TANG ĐỘ :
過扶桑渡 QUÁ PHÙ TANG ĐỘ
扶桑渡口雨紛紛, Phù Tang độ khẩu vũ phân phân,
萬里東風日正曛。 Vạn lý đông phong nhựt chính huân.
借問世途名利客, Tá vấn thế đồ danh lợi khách,
自忘身上總浮雲。 Tự vong thân thượng tổng phù vân.
* Chú thích :
- QUÁ PHÙ TANG ĐỘ 過扶桑渡 : Đi ngang qua bến đò Phù Tang.
- Độ Khẩu 渡口 : là Bến đò, nơi có thuyền đưa khách sang sông.
- Vũ Phân Phân 雨紛紛 : mưa lất phất rơi. Đọc câu nầy làm cho ta nhớ đến câu thơ mở đầu trong bài thơ THANH MINH của Đỗ Mục đời Đường :
清明時節雨紛紛 Thanh Minh thời tiết VŨ PHÂN PHÂN,
Có nghĩa :
Thời tiết Thanh Minh lất phất mưa.
- Đông Phong 東風 : là Gió từ hướng đông thổi đến, tức là Gió Xuân đó.
- Nhựt Chính Huân 日正曛 : là Mặt trời đang lúc chen lặn.
- Thế Đồ 世途 : THẾ là Thế Gian , là Cuộc đời; ĐỒ là con đường; nên THẾ ĐỒ là Đường Đời.
- Tự Vong 自忘 : là Tự mình quên khuấy mình đi.
* Nghĩa bài thơ :
QUA BẾN ĐÒ PHÙ TANG
Trên bến đò Phù Tang mưa đang lất phất rơi mãi không dứt. Gió xuân từ muôn dặm thổi về trong lúc mặt trời sắp chen lặn. Dám hỏi những người khách đang mãi mê đi tìm danh lợi trên bước đường đời, chắc cũng đã quên khuấy đi rằng chính tấm thân mình cũng như là những đám mây đang trôi nổi trên bầu trời mà thôi !
Nhà vua đã nhìn sự việc theo thuyết vô thường của nhà Phật; tất bật ngược xuôi sang sông qua đò để bương trãi trên bước đường đời để mưu cầu công danh lợi lộc; rốt cuộc thì cũng như những đám mây trôi nổi trên bầu trời biến hoá thiên hình vạn trạng và tan hợp vô thường, biết đâu mà lường trước được.
* Diễn Nôm :
QUÁ PHÙ TANG ĐỘ
Bến nước Phù Tang mưa lất phất,
Gió xuân muôn dặm nắng chiều rây.
Đường đời bao khách tìm danh lợi,
Quên khuấy thân mình tựa đám mây !
Lục bát :
Phù Tang bến nước rơi mưa,
Gió xuân vạn dặm lưa thưa nắng chiều.
Đường đời danh lợi khách nhiều,
Quên thân mình tựa mây chiều nổi trôi !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
39. Bài thơ QUÁ PHÙ THẠCH ĐỘ Kỳ 2 :
過浮石渡(其二) QUÁ PHÙ THẠCH ĐỘ (Kỳ Nhị)
山上風吹朝暮雨, Sơn thượng phong xuy triêu mộ vũ,
溪頭紅瘦綺羅雲。 Khê đầu hồng sấu ỷ la vân.
食於人總勞心智, Thực ư nhân tổng lao tâm trí,
何謂紛紛擾擾身。 Hà vị phân phân nhiễu nhiễu thân ?
* Chú thích :
- QUÁ PHÙ THẠCH ĐỘ 過浮石渡 : Qua bến đò Phù Thạch.
- Triêu Mộ Vũ 朝暮雨 : các cơn mưa của buổi sáng và buổi chiều.
- Hồng Sấu 紅瘦 :là nói gọn lại của thành ngữ HỒNG SẤU LỤC PHÌ 紅瘦綠肥, nghĩa đen là : Màu đỏ thì ốm đi, màu xanh lục thì mập ra (là Đỏ gầy xanh béo) ; Ý là : Hoa nở đỏ đã sắp tàn và lá xanh đã rậm rạp thêm. Ý muốn nói mùa xuân đã sắp hết, đã vào lúc tàn xuân.
- Ỷ La 綺羅 :là Quần áo đẹp đẽ sang trọng của Quý bà ngày xưa. Ỷ LA VÂN 綺羅雲" Mây có màu sắc đẹp như gấm lụa .
- Thực Ư Nhân 食於人 : là Ăn của người. Ý nói Được người khác nuôi, chỉ hạng người được cai trị người khác. Sách Mạnh Tử nói: “Người lao tâm thì cai trị người khác, kẻ lao lực thì bị kẻ khác cai trị. Người lao tâm thì được người khác nuôi, kẻ lao lực phải nuôi người khác.”
- Hà Vị 何謂 : Có nghĩa : Sao còn nói là , Sao còn bảo là...
- Phân Phân Nhiễu Nhiễu 紛紛擾擾 : là Tất tất bật bật, là Vất vất vả vả...
* Nghĩa bài thơ :
Qua Bến Đò Phù Thạch.
Gió trên núi đưa đẫy tạo nên những cơn mưa ở buổi sáng buổi chiều; Ở đầu khe suối hoa nở đã sắp tàn còn những đám mây vần vũ thì đẹp như gấm lụa. Những kẻ được người nuôi luôn luôn là những kẻ lao tâm khổ tứ; Sao còn bảo là tấm thân nầy luôn tất bật vất vả !?
* Diễn Nôm :
QUÁ PHÙ THẠCH ĐỘ
Kỳ Nhị
Gió núi đưa mây mưa sáng chiều,
Đầu khe hoa héo sắc mây nhiều.
Ăn người là kẻ hao tâm trí,
Còn bảo thân mình vất vả sao ?!
Lục bát :
Núi mây gió sáng mưa chiều,
Đầu khe hoa tạ mây nhiều sắc tươi.
Người nuôi là kẻ hơn người,
Sao còn tất bật ngậm ngùi than thân ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
40. Bài thơ QUANG KHÁNH TỰ HẠ TRÚ CHU :
光慶寺下駐舟 QUANG KHÁNH TỰ HẠ TRÚ CHU
路頭樹影悠揚遽, Lộ đầu thụ ảnh du dương cự,
園外禽聲嘯嘯纔。 Viên ngoại cầm thanh khiếu khiếu tài.
休惜樽前拚一醉, Hưu tích tôn tiền biện nhất túy,
人生不出少年來。 Nhân sinh bất xuất thiếu niên lai.
* Chú thích :
- QUANG KHÁNH TỰ HẠ TRÚ CHU 光慶寺下駐舟 : là "Đậu thuyền dưới chân chùa Quang Khánh". Chùa Quang Khánh ở xã Dưỡng Mông, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, nay thuộc huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương.
- Du Dương Cự 悠揚遽 : Kéo dài ra.
- Cầm Thanh 禽聲 : Cầm là PHI CẦM 飛禽 là loài vật biết bay; nên CẦM THANH là tiếng các loại chim hót.
- Khiếu Khiếu 嘯嘯 : Từ Tượng thanh : Líu lo, ríu rít.
- Hưu Tích 休惜 : là Đừng tiếc, Chớ tiếc chi, Chớ ngại chi...
- Tôn Tiền 樽前 : TÔN là Chai (đựng rượu), nên TÔN TIỀN là Trước chai rượu.
- Biện 拚 : Liều, như Biện Mệnh 拚命 liều mạng, Biện Tử 拚死 liều chết. Nên BIỆN NHẤT TÚY 拚一醉 là Liều say một trận.
* Nghĩa bài thơ :
Đậu Thuyền Dưới Chân Chùa Quang Khánh
Bóng cây ở đầu đường bỗng chốc như kéo dài ra; Ngoài vườn tiếng chim chóc cũng vừa cất tiếng líu lo ríu rít. Thôi thì trước chai rượu còn tiếc gì mà không liều say một trận cho thỏa thích; Đời người có ai thoát ra được cái vòng phóng túng của tuổi trẻ bao giờ !
Khi làm bài thơ nầy, chắc nhà vua cũng còn trẻ tuổi lắm, nên mới có giọng điệu buông thả liều... say như thế kia !
* Diễn Nôm :
QUANG KHÁNH TỰ HẠ TRÚ CHU
Bóng cây nghiêng ngã phía đầu đường,
Chim chóc líu lo rộn cả vườn.
Nâng chén tiếc gì không túy lúy,
Đời người tuổi trẻ mấy lần vương !
Lục bát :
Đầu đường nghiêng ngã bóng cây,
Trong vườn chim chóc kết bầy líu lo.
Trước chai say khước nằm co
Cũng liều tuổi trẻ đắn đo làm gì !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
bài viết rất hay
Trả lờiXóa