Trên La bàn Trung Hoa, về không gian, Dần ở phương vị Ðông Bắc, về thời gian Dần là tháng Giêng (trong âm lịch hiện nay), về ngày Dần khởi đầu từ 3 giờ sáng, đến 5 giờ sáng.
Về Ngũ Hành (Kim, Mộc Thủy, Hỏa, Thổ), Dần nói chung thuộc Dương Mộc. Nhưng người tuổi Dần tùy theo năm sinh sẽ có Bản Mệnh (hay Mạng) khác nhau:
1.- Giáp Dần (1914 và 1974): mạng Thủy (Ðại Khê Thủy - “Lập định chi hổ” cọp ngồi yên)
2.- Bính Dần (1926 và 1986): mạng Hỏa (Lô Trung Hỏa - “Sơn lâm chi hổ” cọp tại rừng núi)
3.- Mậu Dần (1938 và 1998): mạng Thổ (Thành Ðầu Thổ - “Quá sơn chi hổ” cọp vượt qua núi)
4.- Canh Dần (1950 và 2010): mạng Mộc (Tùng Bá Mộc - “Xuất sơn chi hổ” cọp ra khỏi núi)
5.- Nhâm Dần (1902 và 2022): mạng Kim (Kim Bạch Kim - “Quá lâm chi hổ” cọp đi qua rừng).
Năm nay là NHÂM DẦN. Nhâm thuộc Dương. Sách Trạch Cát Thần Bí nói Nhâm là giai đoạn cây cối đang đâm hoa, kết trái, "đang thai nghén" nên khí Dương ẩn tàng trong đất. Sách Ngọc hạp Chánh Tông Luận Mệnh cho rằng "Chữ Nhâm có thể biến thành chữ Vương" khi có cơ hội học hỏi để thăng tiến. Vì vậy người gặp chữ Nhâm thường thông minh và có số cao sang...
Về vũ trụ, Nhâm có vị trí ở phương Bắc, thuộc Khảm (thủy). Nhâm Dần, hành Mộc thái quá, không có gì ức chế. Thổ suy, gió to, không gian đầy mây và sương mù nên cây cỏ chẳng được thuận lợi. Mộc thắng Kim có thể đưa đến mất mùa. Về Vận Khí, năm Nhâm Dần: ba mộc hợp lại, Mộc chủ Phong (gió, bão) nhưng không mạnh quá, bị kim lấn át gây ra nhiều xung đột và sự gãy đổ trên thế giới.
Về nhân sinh, Nhâm Dân: Mộc hữu dư, Hỏa tư thiên, khí bị nghịch sinh ra nhiều bệnh lạ. Thế giới sẽ rơi vào cảnh phân hóa thù nghịch vì Hỏa khí bốc lên ngùn ngụt. “Tướng hỏa tư thiên” các lò nguyên tử Bắc Hàn và Iran sẽ trở lại và gây nhiều căng thẳng.
NGƯỜI TUỔI NHÂM DẦN
Về thiên can, NHÂM thuộc Dương Thủy, tính mạnh mẽ, kiên trì, lòng hào phóng ưa che chở, bảo bọc người khác. Tuy nhiên vì thuộc Thủy nên đôi khi tỉ mỉ, chậm rãi và ỷ lại. Nói chung Nhâm Dần là tuổi có hoài bảo và đầy nhiệt huyết. Cuộc sống thường gặp nhiều thử thách cam go cho nên thường nóng nảy, tự cao, tự đại ... thường khó hòa mình với tập thể. Ngay trong bản thân, Nhâm Dần, Mệnh Kim Bạch Kim, nhưng Tuổi thuộc Mộc, Kim-Mộc đã khắc nhau... cho nên cuộc đời thường gặp nhiêu tai ương (tai nạn, vấp ngã, bệnh tật...) Vui ít, buồn nhiều. Cân tu tâm và làm việc thiện.***
CHUYỆN CỌP
Cọp là hình tượng xuất hiện khá nhiều trong văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, trong lúc các quốc gia khác, đặc biệt là Tây phương, Cọp rất ít xuất hiện.
Cọp tiếng Hán gọi là “hổ”. Cọp được xem như là vua của các loài dã thú (thú hoang), được tôn xưng là “Chúa Sơn Lâm”.
Thời thượng cổ, người Trung Hoa đã dâng lễ vật cho Hổ vì cho rằng Hổ đã vồ và giết những con lợn rừng. Những lợn rừng này thường hay cày xới tan hoang những cánh đồng khiến dân làng sợ lợn rừng không dám đi cày cấy.
Cọp được xếp vào loài động vật thuộc Dương, tượng trưng cho hùng tính. Vì lý do này, trong văn hóa Trung Hoa, Bạch Hổ (cọp trắng) tượng trưng cho Mùa Thu và phương Tây (Phương Tây lại được kết hợp với nguyên lý Âm, thuộc “thư tính”).
Cọp còn là biểu tượng của can đảm, dũng mãnh, vì cọp có khả năng tiễu trừ ma quỷ, yêu quái. Có lẽ vì vậy mà người ta thấy hình tượng cọp được khắc chạm lên đá tại các nơi nghi là có ma quỷ và cụ thể là trên một số bia và mộ trong nghĩa địa.
Có một số tranh vẽ các vị thần cỡi cọp. Một số tranh khác vẽ hình đứa bé cưỡi cọp dựa theo truyền thuyết vì lòng hiếu, đứa con đã cỡi cọp để bảo vệ không cho nó xâm phạm đến người cha. Treo thanh Hổ là để trấn giữ nhà cửa...chống tà ma.
“Trong nhà hắc hổ trấn bùa
Sinh con, sinh cái nuôi cho dễ dàng” (Chuyện Trinh Thử)
Ngày xưa, người Việt Nam và Trung Hoa sợ cọp đến nỗi kiêng kỵ không dám nói hay gọi đích danh "cọp" hay "hổ". Họ phải dùng một cái tên "lóng" (nickname) để ám chỉ Cọp khi muốn nói đến.
Người Trung Hoa gọi Cọp bằng tiếng lóng là “da chong”(Ðại Trùng - Big Insect) hoặc “Chúa Sơn Lâm”. Có nhiều vị quan đầu tỉnh đã lập bàn thờ, thay mặt nhân dân, cầu khẩn “Chúa Sơn Lâm hãy trở lại núi rừng và ở lại đó, đừng làm hại dân” và theo truyền thuyết thì cọp đã chấp thuận lời cầu xin ấy rồi rời khỏi làng xóm.
Một số chuyện cổ tích Trung Hoa kể rằng “Chúa Sơn Lâm thường nghe theo lời của các nhà cầm quyền” chẳng hạn như truyện một phụ nữ cao niên đã đưa Cọp ra tòa tố cáo cọp đã giết con trai của bà và hiện bà đang bị đói có thể chết. Viên quan tòa quyền lực đã đòi cọp phải ra hầu tòa. Cọp bị kết án là phải cung cấp thực phẩm cho người phụ nữ này cho đến cuối đời bà ta.
Có truyền thuyết cho rằng tại miền Nam Trung Hoa, các dân tộc thiểu số có thể hóa thân thành cọp.
Trong văn hóa Trung Hoa, chữ “bạch hổ” là một thành ngữ thông tục ám chỉ người đàn bà "âm hộ vô mao". “Hổ bộ” (Tiger step) chỉ một trong ba mươi tư thế giao hợp nam nữ trong sách Trung Hoa xưa. (A Dictionary of CHINESE SYMBOLES - Wolfram Eberhard)
Người Việt Nam ở vùng rừng núi hoặc gần rừng núi, hoặc thường phải đi xuyên rừng cũng kiêng không gọi tên thật của cọp. Người ta gọi cọp là “Ông Ba Mươi”, “Ông Mễnh”, “Ông Kễnh. Ở miền Trung Việt Nam, người ta gọi Cọp là “Ôn” hay “Mệ”. Thành ngữ “xuôi tay cho Mệ nuốt” có nghĩa là buông xuôi, mặc số phận, không phần đấu nữa.
Trong các loài vật, cọp được gọi là “ông” một cách lễ độ. Người sợ cọp là vì thấy cọp hung dữ và có sức mạnh phi thường có thể vồ và giết trâu, bò và có khi cả con người.
Ở Việt Nam, có tục thờ thần Ngũ Hổ tại các am điện thuộc phái Thiên Tiên Thánh Giáo. Người ở rừng núi thờ Ngũ Hổ cũng như người ở biển thờ Cá Voi để nhờ cậy sự cứu giúp.
Thần Ngũ Hổ
Ngũ Hổ Tướng Quân là năm vị thần Cọp cai quản năm phương (Ngũ Phương): Đông, Nam, Trung Ương, Tây và Bắc, tương ứng với Ngũ Hành trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ.
Ngũ Hổ tướng là các vị sơn thần biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng, là bộ hạ của Mẫu, có nhiệm vụ canh giữ cổng vào ra tại các đền, các phủ và tiêu diệt tà ma, đem lại sự cân bằng, yên ổn cho năm vùng phương trời đất.
Sau đây là vị trí của "Ngũ Hổ Thần" bao gồm màu sắc, danh xưng (được cấu trúc theo thứ tự: Phương hướng - Thiên Can - Ngũ Hành và Ngũ Sắc)
1. Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (Cọp xanh)
2. Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Xích Hổ Thần Quan (Cọp đỏ)
3. Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (Cọp vàng)
4. Tây Phương Canh Tân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan (Cọp trắng)
5. Bắc Phương Nhâm Quý Thủy Đức Hắc Hổ Thần Quan (Cọp đen)
Hoàng Hổ đứng đầu trung cung, có nhiều quyền uy, trấn giữ và điều động Bốn phương. Hoàng Hổ Quan vị Tướng Lãnh cao nhất, thâu tóm mọi uy quyền, quyết định âm phù dương trợ cho dân gian.
Quan Ngũ Hổ được thờ ở hạ ban trong điện thờ Mẫu, hình ảnh về các ngài cũng thường hay xuất hiện trong các tranh thờ, đặc biệt là bộ tranh dân gian Hàng Trống.
NGUỒN GỐC CÁI TÊN “ÔNG BA MƯƠI”
Tại sao gọi cọp là “Ông Ba Mươi”?
Cho đến nay, chưa có một thoại nào có tính cách “hợp tình hợp lý”, ngoài truyền thuyết “Phạm Nhĩ náo loạn Thiên Cung bị đày xuống trần gian”. Chuyện kể rằng:
Từ ngàn xưa, trên Thượng Giới, có một người có sức khỏe lạ lùng, có thể dời núi lấp biển, đội đá phá cây.. không một sánh nổi. Về tài phép, ông cũng thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị trong Thiên đình. Người này có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ.
Quen thói từ lúc nhỏ vốn tinh nghịch và hung hăng, Phạm Nhĩ không mấy khi ở yên. Ông thường hay gây sự đánh nhau với những kẻ mà ông không thích. Nhưng người ta đều tránh né, chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng không chịu nổi một cú đấm, hoặc cái gạt của ông.
Thấy mọi người đều kém tài, Phạm Nhĩ ngày một tỏ ra kiêu căng tự phụ. Ông cho rằng các vị thần chung quanh Ngọc Hoàng chẳng qua chỉ là những kẻ yếu ớt, tài nghệ chẳng được bao nhiêu. Phạm Nhĩ bất mãn vì bấy lâu danh tiếng ông nổi như cồn mà vẫn không được Ngọc Hoàng vời vào để trao cho một chức vị xứng đáng. Mỗi ngày lòng kiêu căng tự phụ của ông một lớn thêm mãi. Cho đến lúc Phạm Nhĩ coi thường cả Ngọc Hoàng, tự cho rằng có sức mạnh và tài phép như ông thì phải làm vua nhà Trời mới phải.
Thế rồi chẳng bao lâu ông đã quy tụ một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người, thành một đội quân. Ðội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên đình, nhưng vì sợ oai Phạm Nhĩ, nên không một ai dám bắt. Cuối cùng, Phạm Nhĩ dẫn đội quân tiến đến Thiên cung đòi đánh Ngọc Hoàng dành quyền cai trị Thiên Ðình.
Ngọc Hoàng Thượng Ðế vội vàng sai các Thiên tướng đem quân nghênh chiến. Có đến mười tám vị thiên tướng, vị nào cũng túc trí thần thông, miệng thét ra lửa tay bẻ gẫy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu. Chưa đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về.
Ngọc Hoàng lại sai năm mươi lực sĩ hầu cận, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ. Nhưng cũng chẳng mấy chốc số người này cũng bại trận. Quân nhà Trời đông, nhưng kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy tán loạn. Thừa thắng, Phạm Nhĩ tiến lên vây chặt Thiên cung.
Ngọc Hoàng thượng đế hết sức lo ngại. Theo lời bàn của các triều thần, Ngọc Hoàng vội sai Bắc Ðẩu Tinh Quân đi cầu cứu đức Phật. Ðức Phật sai đức Chuẩn Ðề đi bắt Phạm Nhĩ.
Nhưng không ngờ Chuẩn Ðề pháp thuật cao cường mà vẫn không thắng được Phạm Nhĩ, phải bỏ chạy về bạch Phật.
Ðức Phật liền đích thân ra tay. Trong lúc Phạm Nhĩ đương hung hăng múa may thóa mạ Ngọc Hoàng và triều thần bất tài bất lực, thì đức Phật đã hiện ra giữa không trung. Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ sa ngay vào túi thần của đức Phật, toàn thân co rúm không cử động tay chân được nữa. Thế là ông bị bắt. Phật giao Phạm Nhĩ cho Ngọc Hoàng phân xử, huấn thị là làm cho y hối lỗi chứ đừng giết hại nữa.
Ngọc Hoàng bèn đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp loài vật. Nhưng trước hết Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông để tước bớt sức mạnh, sợ bất thần ông lại bay trở về Trời náo loạn. Hơn nữa, Ngọc Hoàng còn lo Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện bốn phương ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm. Bởi vậy để làm giảm bớt trí nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín lại. Tuy nhiên, thể theo lời dặn của đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm Nhĩ làm Chúa tể sơn lâm để an ủi đôi phần. (Theo "Cổ Tích Việt Nam" - Nguyễn Đổng Chi)
Từ khi xuống trần, tài phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn cánh mà bay. Mặc dầu vậy, ông vẫn còn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh hiệu chúa tể mà Ngọc Hoàng phong cho. Cho đến sau này, dòng dõi nhà ông vẫn nối nhau làm chúa sơn lâm. Ngay loài người cũng phải kiêng ông, không dám gọi cái tên “Hổ”, mà chỉ gọi tránh là ông “Ba Mươi”.
Gọi là ông Ba Mươi là vì, mỗi khi có người nào săn được hổ thì nhà vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con thú hung ác. Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu đánh ba mươi hèo để cho vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa.
CỌP TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM
Cổ tích Việt Nam có rất nhiều chuyện liên quan đến Cọp. Trong sách “Việt Nam Văn Học Toàn Thư “(Hoàng Trọng Miên) có khoảng 15 chuyện, phần lớn có tính khôi hài, mỉa mai sự ngu khờ của cọp, ca tụng trí khôn con người (Ăn trộm và cọp rình nhà; Cọp mắc đuôi trong bụi dừa nước; Cọp bị đá; Ðút sáp cho cọp ăn khỏi chết; Bầy trâu với cọp; Chuột mộng hóa cọp; Chồn với cọp; Tại sao cọp ăn thịt người; Cọp và chó rừng; Cọp mắc bẫy không ai thèm cứu; một vài chuyện có tính cách huyền bí (Vua Hóa Hổ; Mã Hổ Táng) hầu hết đều không có tính cách ngụ ngôn hoặc chuyên chở đạo lý.
Chuyện “Vua Hóa Cọp” xảy ra vào đời nhà Lý. Vua Lý Thần Tôn lên ngôi được ít lâu thì mắc chứng bệnh khác thường, mình mẩy mọc lông như cọp, gầm thét suốt ngày. Danh y trong nước đều bó tay. Bỗng một hôm triều thần nghe bọn trẻ hát rằng “Muốn chữa bệnh vua phải tìm đức Minh Không mới được.”
Minh Không là một thiền sư, ở chùa Ðạm Xá, tỉnh Ninh Bình, đệ tử của Từ Ðạo Hạnh, được truyền pháp thuật cho. Khi Từ Ðạo Hạnh sắp chết, có dặn Minh Không rằng “Nay ta thác sinh làm đế vương, nếu mai sau có mắc bệnh gì, ngươi nhớ mà cứu ta với“
Quan địa phương tâu lên, triều đình phái người tìm Minh Không và mời vào cung. Minh Không dùng pháp thuật cho đoàn thuyền của quân binh Triều Ðình về thật nhanh rồi vào cung. Các danh y thấy Minh Không ăn mặc tầm thường tỏ vẻ coi nhẹ. Minh Không cầm một cái đinh dài một tấc cắm vào một cai cột trong cung và nói “Ai nhổ được cái đinh này ra thì mới chữa được bệnh vua”. Mọi danh y đều thử sức nhưng không ai nhổ được. Minh Không dùng hai ngón tay rút ra một cách nhẹ nhàng.
Minh Không nấu dầu sôi rồi rưới lên mình vua, rưới đến đâu lông rụng tới đó, vua trở lại bình thường. Lý Thần Tông tôn Minh Không làm Quốc Sư, nhưng Minh Không cáo từ ra đi.
Chuyện “Mả Hổ Táng” kể rằng vào đời vua Lê, có ông quan là Lý Khắc Cần, đem quân vào rừng lấy gỗ, bị cọp vồ chết. Xác còn nguyên, nhưng quân lính không thể đưa về được vì có cọp ngồi canh giữ. Quan tỉnh đưa quân lên lấy xác, thấy voi và cọp từng đàn vây quanh xác quan, phải bắn súng mới giải tán được. Xác đem về tỉnh chôn cất, nhưng ba ngày sau thấy huyệt trống vì quan tài đã bị voi cọp về quật lên mang vào núi chôn. Con cháu Lý Khắc Cần đến cửa Truông, núi Ðại Ngàn ở ranh giới Hà Tĩnh và Nghệ An thì thấy mộ. Quan tỉnh ra lệnh để yên vì “Mả Hổ Táng” rất tốt sẽ phát làm quan lớn.
Trong văn chương hiện đại, vào thập niên 1970, có chuyện “Ông Vua Hóa Hổ” nhưng nội dung hoàn toàn khác với chuyện thời nhà Lý. Chuyện kể rằng:
“Vào đầu thế kỷ thứ 20, tại Việt Nam có một ông vua rất mực thương dân, muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc và được học hành. Vua sống rất bình dân và có thói quen tiết kiệm của cải “rất cao”. Nghe nói có một vị pháp sư ở vùng tuyết phủ Tây phương có phép thuật tài tình làm cho dân được ấm no, nước được phú cường một cách nhanh chóng, vua liền cùng tứ trụ triều đình và hoàng hậu lên đường đi cầu học pháp thuật để mong đem về giúp cho dân được ăn no, mặc ấm và xóa đói giảm nghèo cho đất nước.
Vua và đoàn tùy tùng quả nhiên đã đến vùng Tây phương trắng xóa tuyết lạnh và đã được vị pháp sư cao tay ấn dạy cho các pháp thuật cần thiết để biến hóa mà giúp dân. Sau một thời gian học và tập, thấy đã tiếp thu đầy đủ lý thuyết, thực hành nhuần nhuyễn, Vua và tùy tùng xin về nước. Pháp sư và quốc vương xứ tuyết trắng cấp cho một số lương thực đi đường khá hậu hĩnh đầy đủ món ngon vật lạ.
Vừa ra khỏi biên giới nhà Vua đề nghị với tứ trụ triều đình và hoàng hậu rằng: “Ta nên tiết kiệm, đừng dùng đến số lương thực này, trên đường về tôi đã nghĩ ra kế hoạch tự lực cánh sinh. Triều thần “nhất trí” nhưng hỏi vua phải làm như thế nào để tự túc. Vua phán “Ta sẽ dùng phép hòa thành một con Hổ, Vua làm cái đầu, hoàng hậu làm cái đuôi, tứ trụ làm bốn chân. Thế là thời gian đi qua các rừng núi ta tha hồ mà ăn thịt các thú vật để khỏi đụng đến lương thực dự trữ.
Cuộc hành trình kéo dài nhiều tháng trong rừng núi, Vua hóa hổ ăn thịt sống quá nhiều đến nỗi một số phép biến hóa bị suy giảm do ảnh hưởng của chất máu sinh vật. Khi về đến ranh giới đất nước, vua mừng lắm, nhưng lại thấy nhân dân không hồ hởi, phấn khởi nghênh đón mình thì đâm ra tức giận lũ vô ơn, vô tình. Vua quên mất là phái đoàn mình đã biến thành cọp, miệng còn vấy máu, khiến nhân dân sợ hãi, người thì bỏ chạy, kẻ thì chống lại. Trước tình hình khó hiểu đó, vua đành vào tạm trú trong một cái hang ở vùng Tây Bắc. Trong cơn mộng, Vua nhận ra là mình đang mang lốt cọp dữ dằn. Thức dậy, vua vận dụng phép thuật để biến lại thành người, nhưng vì sát sanh quá mạng trên đường đi, phép hiện nguyên hình không còn linh ứng nữa.
Từ đó, vua càng hung bạo tha hồ tàn sát, gầm rú hăm dọa và ăn luôn thịt của nhân dân mình. Cả thế giới hoảng sợ. Cuối cùng Vua ấy bị một số lực sĩ có tài “đả hổ” vây lưới giam lỏng, sau một thời gian thì ngã bệnh chết. Xác không được chôn, người ta đem ướp để triển lãm.
Theo dư luận thì câu chuyện này ra đời sau 30-4-1975, tác giả của nó bị bắt bỏ tù, bởi vì thấy độc giả không hiểu thấu thâm ý của mình viết về cái gì, về kẻ nào, bèn tiết lộ cho một vài người biết ông vua đó là ai. (Quý độc giả thử đoán xem "Ông Vua hóa hổ" đó là ai?)
Thơ tiền chiến, có bài “Nhớ Rừng” của Thế Lữ khá hay và rất nổi tiếng. Bài thơ được gửi gấm tâm sự của một người vong quốc, bị giam cầm, nhớ về thời vàng son của đất nước mà căm hờn giặc xâm lăng qua lời con Hổ trong vườn Bách Thú.
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Ðể làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nổi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi,
Với khi hát khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn cỏ hoa, không tên không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Ðâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Ðâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Ðâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Ðể ta chiếm lấy phần bí mật?
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm mối uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, thâm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Ðể hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Thế Lữ (1936) đề tặng Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh)
Cọp rất nóng tính đó
Trả lờiXóa