Trên
đường ra xe
trở về thế
giới trần tục,
một chị trong
đoàn hành
hương đi bên
cạnh vợ chồng
tôi nói “ Lạy
Phật! Vậy là
tui thỏa mãn
điều ước
nguyện từ mười
tám năm nay
rồi.” Không
nén được ngạc
nhiên, tôi vụt
hỏi:
-Uả,
chùa Tây Tạng
khánh thành
mới đây, mà
chị đã biết
lâu dữ vậy à?
Làm
sao chị biết
?
-Hồi
đó, trong hãng
tôi có một ông
người Mỹ theo
đạo Phật, ăn
chay trường,
sống một mình,
thường nhờ tôi
mua đồ nấu
chay. Cuối
tuần là ông
lái xe từ San
José lên đây
làm công quả.
Chính ông kể
với tôi về
công trình xây
dựng ngôi chùa
này nên tôi
mới biết và
nguyện khi
khánh thành,
thế nào cũng
hành hương để
chiêm bái. . .
À ra
thế. Ở đời sao
lại có những
nhân duyên kỳ
thú đến thế.
Tôi cứ tưởng
rằng phải chờ
đến khi báo
San Jose
Mercury News
đưa tin
(10/6/96) và
hệ thống ABC
phát hình trên
toàn quốc thì
thiên hạ mới
biết đến trung
tâm Phật giáo
này của Tây
Tạng, nào hay
đã có người
biết từ 18 năm
trước !
Chí Nguyện Bền Bĩ
Nằm
trên một cao
nguyên nhỏ
ngay bên bờ
Thái Bình
Dương, thuộc
quận hạt
Sonoma, bang
California,
Odiyan
Buddhist
Center - mà
người Việt
chúng ta đã
gọi một cách
giản dị là
chùa Tây Tạng
- là một phức
hợp gồm các
đền, tháp,
điện thờ, hoa
viên v.v. bố
trí rải rác
nhưng hài hòa
trong một
khung cảnh
thiên nhiên
hùng vĩ với
ngàn thông
xanh ngắt và
cổ thụ um tùm,
trên một diện
tích rộng
1,100 acres.
Toàn
khu vực nguyên
trước là một
trại nuôi cừu.
Từ ngày thuộc
sở hữu, trung
tâm đã trồng
được 200,000
cây mới, do Bộ
Lâm nghiệp và
Phòng cháy
tặng. Công
trình này được
khánh thành
vào trung tuần
tháng 6 năm
1996, sau 20
năm tự lực cần
cù xây dựng,
trị giá 12
triệu đô-la.
Non
ba mươi năm về
trước, có một
vị Lạt Ma đến
định cư tại
thành phố
Berkeley để
hoằng dương
Phật pháp. Đó
là đại sư
Tulku
Tarthang,
người sáng lập
Nyingma
Institute,
trung tâm
truyền bá Phật
giáo đầu tiên
của Tây Tạng
trên đất Mỹ.
Từ trung tâm
này, dần dần
hình thành một
cộng đồng Phật
giáo nhỏ bé
nhưng đầy tâm
lực.
Để
thực hiện dự
án Odiyan, tài
chánh dĩ nhiên
là một vấn đề
lớn nhưng vẫn
chưa lớn bằng
công sức của
đại sư Tulku
Tarthang trong
việc kiên trì
giáo dục,
hướng dẫn các
thành viên
trong cộng
đồng thâm nhập
tinh hoa của
nền văn hóa
nghệ thuật Tây
Tạng ngõ hầu
có thể xây
dựng nên một
công trình
xứng đáng là
biểu tượng của
nền văn hóa
nghệ thuật
miền tuyết cao
Hy Mã Lạp Sơn,
chứ không phải
là một sản
phẩm lai căng
nào khác.
Cũng
là mái đền uốn
cong, nhưng
không phải
kiểu mái uốn
của Trung Hoa,
Nhật Bản hay
Việt Nam. Đó
là kiểu mái
gợi người ta
nhớ đến Điện
Potala của
kinh đô Lhasa
ngày trước.
Cũng thế,
những hoa văn
trang trí và
những phù điêu
thếp vàng rực
rỡ.
Muốn
đến trung tâm
Odiyan, bạn
phải đóng 25
Mỹ kim tiền
vào cửa. Tôi
nghe nói đó là
cái “giá thông
cảm” dành cho
người Việt tị
nạn, chứ đối
với người Mỹ
chánh gốc thì
còn cao hơn.
Xin bạn đừng
vội than:
“chùa làm tiền
chi dữ rứa!
”.
Nếu
không có sự
đóng góp của
thập phương,
mỗi người một
ít, thì lấy
đâu xây dựng
nên cơ ngơi vĩ
đại như thế?
Trong ngân
khoản xây dựng
nên Trung tâm
Odiyan, có thí
chủ cúng một
đồng, có thí
chủ cúng non
nửa triệu. Dù
ít dù nhiều,
chùa cũng trân
trọng ghi vô
sổ vàng tán
dương công
đức. Tuy
nhiên, nguồn
tài trợ chính
vẫn là tiền
thu từ những
hoạt động giáo
dục của Học
viện Nyingma ở
Berkely và
tiền bán sách
cùng các văn
hóa phẩm khác
của Nhà Xuất
bản Dharma.
Nhìn
vào những công
trình kiến
trúc qui mô và
phức tạp của
Trung tâm
Odiyan, ai
cũng nghĩ ngay
rằng đó hẳn
phải do một
nhà thầu kiến
trúc có tầm cở
mới thực hiện
được như thế.
Khi Trung tâm
sắp hoàn
thành, có mở
cửa không
chính thức cho
một số khách
Mỹ tham quan.
Mục kích những
kiến trúc đã
hoàn tất, một
du khách tò mò
hỏi Leslies
Bradburn --
nhà vi sinh
vật học, thành
viên của
Odiyan, từng
phục vụ việc
xây dựng nơi
này từ 17 năm
nay -- rằng :
“Vậy
chứ nhà thầu
của quí vị là
ai? Ai đã xây
dựng công
trình này?”
thì được trả
lời: “Ấy, cái
người vừa mới
đem nước chanh
đến mời ông là
nhà thầu đấy.
Thực ra, hết
thảy chúng tôi
đều là nhà
thầu.”
Sự
thật là thế.
Công trình trị
giá 12 triệu
đô-la đó không
tốn một đồng
nhân công nào
vì tất cả đều
do những bàn
tay thiện
nguyện hình
thành . Kiến
trúc sư thiện
nguyện vẽ đồ
án, kỹ sư
thiện nguyện
hướng dẫn,
trông coi việc
xây dựng và
nhân công
thiện nguyện
làm thợ nề,
thợ mộc, thợ
điện, thợ hàn,
thợ ống nước,
thợ lái máy
san ủi mặt
bằng, máy đào
móng, đào hồ
v.v. Họ là đệ
tử của đại sư
Tulku
Tarthang, là
học viên của
học viện
Nyingma, là
thiện nguyện
viên từ bên
ngoài, thuộc
đủ mọi thành
phần xã hội :
luật sư, kỹ
sư, nhà khoa
học, sinh viên
v.v.
Để
tiết kiệm,
trung tâm tìm
mọi cách khai
thác nguồn vật
liệu miễn phí.
Sau trận động
đất năm 1989,
Odiyan xin
được một số
phế liệu từ
các cơ sở nhà
nước bị hư
hỏng, đem về
tái chế để sử
dụng; chẳng
hạn cẩm thạch
lót chánh điện
là từ một
trường học bị
sụp đổ, khung
sắt của các
đền, tháp, là
từ một xa lộ ở
San
Francisco.
Công
trình phải kéo
dài đến 21 năm
(1975-1996)
mới xong vì có
tiền đến đâu
làm đến đó. Có
những lúc phải
ngưng hẳn
trong một thời
gian vì ngân
khoản cạn
kiệt. Có lúc
phải lo chạy
tiền gấp rút
vì bất ngờ có
công tác khẩn
thiết phát
sinh, không
thể lơ là trì
hoãn được,
chẳng hạn sau
vụ đất chuồi
xảy ra năm
1991, đe dọa
một trong các
công trình
đang xây, phải
chạy cho ra ba
trăm ngàn
đô-la để gia
cố sườn đồi .
Đường Đi Tây Trúc Mới
Chuyến
hành hương
ngày 18-8-96
vừa qua được
đặc biệt dành
riêng cho cộng
đồng Phật giáo
Việt Nam. Ai
muốn đi thì
ghi tên tại
các chùa. Muốn
đi bằng phương
tiện riêng
cũng được,
nhưng phải ghi
tên, đóng lệ
phí cho Odiyan
để lấy thẻ vào
cửa. Trước đó,
vào trung tuần
tháng 6, Trung
tâm Odiyan đã
mở cửa bốn đợt
cho khách thập
phương tham
quan. Tôi đi
theo đoàn của
chùa Đức Viên.
Khách khá đông
nên chùa phải
thuê bao đến
sáu xe bus mới
đủ.
Nếu
bạn đã từng
viếng chùa Vạn
Phật Thành
(The City of
Thousand
Buddhas) của
người Hoa, nằm
ở phía bắc San
Francisco,
thuộc thành
phố Talmage,
thì Trung tâm
Odiyan cũng
nằm về hướng
đó, nhưng
chếch về phía
tây, sát ngay
bờ biển. Một
đàng, nằm trên
xa lộ 101, một
đàng nằm trên
đường duyên
hải số 1.
Ngày
xưa ngài Đường
tăng Trần
Huyền Trang
phải trải qua
thiên nan vạn
nan mới tới
được Tây Trúc
để thỉnh kinh.
Ngày nay, từ
San Jose tới
Tây Trúc mới,
chỉ cần ngồi
trên xe 4 bánh
vi vút trong 4
tiếng đồng hồ
là xong. Nói
vậy chứ đường
đi chùa Tây
Tạng có vẻ khó
khăn và nguy
hiểm hơn
nhiều, so với
đường đến chùa
Vạn Phật
Thành, nhất là
đối với người
lái xe non tay
và xe không
được tốt.
Sau
khi giải lao
20 phút ở đầu
cầu Golden
Gate, xe theo
xa lộ 101 bắc
hướng về
Petaluma City,
lấy Exit
Washington
West rồi theo
đường Valley
Ford để bắt
vào đường Số 1
bắc tại thị
trấn cùng tên.
Chạy thêm một
đoạn nữa, vượt
qua thị trấn
Bodega thì xe
bắt đầu chạy
dọc theo đường
duyên hải Số
1. Đó là bác
tài xế muốn đi
một đường về
một đường cho
bà con có dịp
ngắm phong
cảnh, chứ thật
ra, bạn có thể
đi thẳng một
mạch đến thành
phố Santa Rosa
rồi đổ vào
Highway 12
West, băng qua
Sebastopol
City, đi tiếp
về phía tây
cho đến khi
gặp đường Số 1
tại thị trấn
Bodega.
Đường
duyên hải Số 1
phong cảnh
hùng vĩ hữu
tình, có nhiều
đoạn cheo leo
nguy hiểm
giống như đèo
Hải Vân, nhất
là mấy khúc
quanh chữ V
đầy thử thách.
Đại dương khi
xa khi gần,
tha hồ ngắm
cảnh sóng ào
ạt vỗ bờ. Giá
như đi xe
riêng, có thể
dừng lại nhiều
nơi để thưởng
ngoạn vẻ đẹp
hoang dã kết
hợp hài hòa
giữa rừng núi
mây trời và
biển cả. Đường
chỉ có một lối
đi và một lối
về. Chiếc xe
bus kềnh càng
có vẻ khổ sở
với lối đi
hẹp, nên gặp
đoạn nào phía
trước vắng vẻ
an toàn, tài
xế cho xe chạy
tràn giữa
đường cho
thoải mái,
nhất là tại
những khúc
quanh ngặt
nghèo.
Tại
ngã ba
Stewarts
Point, xe rẽ
phải, men theo
đường nhỏ đến
chùa. Con
đường trải
nhựa ngoằng
ngoèo rợp bóng
mát của bạt
ngàn gỗ đỏ
(Redwood),
giống hệt
đường lên chùa
Kim Sơn ở
Watsonville,
nhưng cheo leo
hiểm trở hơn
nhiều. Trong
xe nghe rì rầm
tiếng cầu
nguyện, niệm
Phật của các
cô các bà. Tôi
ngồi sát cửa,
lắm lúc cũng
rợn người khi
thấy bên
ngoài, ngay
dưới chỗ ngồi
của mình là
vực sâu với
vách núi dựng
đứng, chẳng có
gì che chắn
cả.
Nếu
bác tài lạc
tay lái thì
không biết sự
tình ra sao !
Hoặc giả xe
chết máy dọc
đường cũng sẽ
là một trở
ngại lớn, vì
muốn kéo không
dễ. Đường nhỏ,
vừa lọt chiếc
xe bus, vì
vậy, mỗi lần
gặp xe nhỏ
ngược chiều,
hai bên đều
vất vả mới
lách được
nhau. Lắm lúc
xe nhỏ phải
thối lui một
đoạn mới tìm
được chỗ nép
mình. Đường đi
khó khăn như
thế, nên khi
được thấy tận
mắt những công
trình kiến
trúc của Trung
Tâm Odiyan,
lòng cảm phục
của tôi đối
với những
người góp tay
xây dựng càng
tăng gấp bội.
Đường đã hẹp,
lại quanh co
khúc khuỷu,
chỉ thích hợp
với loại xe du
lịch, tốc độ
không quá 15
dặm một giờ
khi leo dốc,
đi chơi mà
nghe đã mệt,
huống hồ đưa
được một xe
chở vật liệu,
thiết bị, máy
móc đến nơi,
quả là một
công trình.
Tây Trúc Là Đây
Cuối
cùng thì cũng
đến nơi. Tính
ra, mất bốn
giờ đi đường.
Trong bãi đậu
xe chính lố
nhố những xe
và người, toàn
là khách hành
hương Việt Nam
của vùng Bay
Area, thuộc
các chùa: Đức
Viên, Giác
Duyên, Pháp
Duyên, An Lạc.
. . Trong tầm
nhìn được, kể
cả hai bãi đậu
xe, có đến 17
xe bus thuê
bao, chưa kể
xe nhà tự
túc.
Thành
viên thiện
nguyện của
trung tâm, máy
liên lạc cầm
tay, đang
hướng dẫn việc
đậu xe và nơi
tập trung cho
khách hành
hương. Họ là
những người
đang tu học ở
đây, là người
trực tiếp xây
dựng Odiyan,
nhưng không
mặc đồng phục
hay đạo phục
gì cả, ngoại
trừ cái huy
hiệu trên ngực
áo.
Khả
năng tiếp nhận
của trung tâm
chừng ba trăm
người một lần
hướng dẫn tham
quan. Đang có
một đoàn vào
bên trong nên
chúng tôi phải
chờ đợi bên
ngoài, dưới
tàn cao im mát
của đám cổ
thụ. Một số bà
con có chuẩn
bị áo tràng
nên đem ra
mặc.
Trong
khi chúng tôi
đứng ngồi chờ
đợi, có mấy bà
thành viên
trung tâm bưng
những khay dưa
hấu đi mời
khách giải
lao, dáng vẻ
ân cần niềm
nỡ. Họ không
ngờ cộng đồng
Phật giáo Việt
Nam ở Vùng
Vịnh lại nhiệt
thành hành
hương đến thế.
Những ai sức
yếu, không
kham nổi đi bộ
thì đã có hai
ba chiếc xe,
loại dùng
trong sân
golf, chạy tới
chạy lui để
chở từ địa
điểm này tới
địa điểm khác,
vì khoảng cách
giữa các thắng
tích khá xa.
Trước
khi đoàn chúng
tôi được hướng
dẫn vào khu
vực, Trung tâm
Odiyan nhờ Sư
Bà Đàm Lựu phổ
biến một bản
nội qui bằng
tiếng Việt, có
nội dung nhắc
nhở mọi người
giữ im lặng và
trật tự trong
lúc tham quan,
vừa tôn trọng
chốn thiền
môn, vừa có
thể thanh lọc
thân tâm để
được lợi lạc
trong lúc hành
hương. Khoản
quay phim chụp
hình hoàn toàn
nghiêm cấm, ở
bên trong các
điện, đài cũng
như bên ngoài.
Đó là điều
không phải chỉ
làm cho một
mình tôi tiếc
rẻ, nhất là
khi được thấy
tận mắt biết
bao hình ảnh
đáng ghi vào
ống kính và
biết rằng
không phải khi
nào cũng có
dịp lui tới
chốn này.
Đền Liên Hoa
(Ảnh của Odiyan Center)
(Ảnh của Odiyan Center)
Trên
tất cả các con
đường chính
trong trung
tâm, hai bên
đều trồng toàn
hoa hồng và
cách một đoạn
lại có một cột
cờ, loại khá
lớn. Tôi không
biết có bao
nhiêu cột cờ
tất cả, nhưng
thấy đường nào
cũng có. Trên
mỗi trụ cờ như
thế, có hai
hoặc ba lá cờ
bằng lụa với
màu sắc khác
nhau phất phới
tung bay trong
gió biển cao
nguyên. Người
ta nói rằng có
đến 7,000 lá
cờ như thế.
Nếu
để ý, khách
hành hương sẽ
thấy trên mỗi
lá cờ đều chi
chít chữ Tây
Tạng viết bằng
mực đỏ. Tôi
hỏi một thành
viên “Quí vị
viết gì trên
là cờ? Có phải
là trích đoạn
của kinh điển
hoặc các thần
chú không ?”
Bà ta mỉm cười
đáp phải. Theo
truyền thống
Tây Tạng, khi
viết như thế,
người viết
phải thành tâm
chú nguyện gì
đó chứ không
phải viết cho
có chữ.
Con
đường chính
dẫn vào trung
tâm Odiyan đổ
xuống thoai
thoải một sân
rộng, ở giữa
có một đình
Bát giác. Bên
phải đình là
lối đi dẫn đến
đền Liên Hoa
(The Vajra
Temple of
Padmasambhava),
bên trái là
đường dẫn đến
khu Chánh
điện. Chúng
tôi được hướng
dẫn đi thăm
đền Liên Hoa
trước.
Đền
nằm trên một
đỉnh đồi, hình
bát giác với
mái cong
truyền thống
màu lục, lợp
bằng tôn dợn
sóng, mới nhìn
tưởng là ngói,
vì được kết
hợp hài hòa .
Nhìn bên
ngoài, rõ ràng
là đền có bốn
tầng mái,
nhưng bên
trong thì
thông suốt từ
dưới lên trên,
trông cao vòi
vọi.
Ngày
nay, hai tông
phái Phật giáo
đang hấp dẫn
người Mỹ là
Mật tông Tây
Tạng và Thiền
tông (Zen)
Nhật Bản,
nhưng Tây Tạng
biết đến Phật
giáo khá muộn.
Mãi đến thế kỷ
thứ 8, khi vua
Thi-Srong-Detsan (740-786) cung thỉnh thánh tăng Padmasambhava thuộc
Phật Học Viện
Nalanda (Ấn
Độ) vào truyền
giáo thì Tây
Tạng mới theo
Phật giáo. Tên
của ngài có
nghĩa là “Sanh
ra từ Hoa Sen”
( The
Lotus-Born) và
ngài là sáng
tổ của môn
phái Nyingma
mà đại sư
Tulku Tarthang
đang kế thừa.
Theo
ghi nhận của
ký giả Richard
Scheinin, khi
thành lập
Trung tâm Phật
giáo Odiyan ở
Mỹ, người ta
nghĩ rằng đó
là một việc
làm có ý nghĩa
rất tượng
trưng: Ngày
xưa, Tổ
Padmasambhava
mang hạt giống
Phật pháp vào
gieo ở đất Tây
Tạng thì ngày
nay hậu duệ
của ngài là
đại sư Tulku
Tarthang lại
mang hạt giống
đó đến gieo
rắc ở một miền
đất mới thuộc
Tây bán cầu là
đất nước Hoa
Kỳ. Đền Liên
Hoa được xây
dựng để phụng
thờ và tán
thán công đức
của ngài
Padmasambhava,
cũng như cầu
xin sự phù hộ
của ngài trong
việc hoằng
dương Phật
pháp.
Đền
được dựng trên
một nền rộng
hình vuông.
Đứng trên đó,
phóng tầm mắt
về hướng tây
thấy mịt mù
sương khói màu
xanh, biết
rằng nơi đó là
biển cả nhưng
không thể phân
biệt được lằn
ranh giữa trời
và nước. Đền
có bốn cổng
chạm trỗ hình
nai thếp vàng
-- có ý nhắc
đến vườn Lộc
Uyển thời Đức
Phật -- dẫn
vào bốn cửa
bọc đồng đi
vào đền. Một
vòng thành nhỏ
nối liền 4
cổng, kết hợp
bởi những bánh
xe hình trụ
bọc đồng có
ghi thần chú.
Đó là các bánh
xe cầu nguyện
(Prayer
Wheels).
Theo
truyền thống
Tây Tạng, khi
cầu nguyện họ
thường, vừa
quay bánh xe
vừa đọc chú
Lục tự Đại
minh Chơn
ngôn. Thời đại
cơ khí nên các
bánh xe này
được vận hành
bằng điện,
quay liên tục,
chầm chậm,
phát ra âm
thanh trầm
trầm giống như
khi các vị sư
ngâm chủng tự
Om lúc cầu
nguyện.
Để
hết mũ nón
giày dép ở bên
ngoài, chúng
tôi xếp hàng
vào đền. Hai
bên cửa, có
mấy Phật tử
đứng đón.
Chúng tôi chào
nhau theo
truyền thống
Phật giáo qua
cái chắp tay
cúi đầu kính
cẩn. Bên trong
điện, ngay
chính giữa là
những tầng kệ,
sắp xếp như
một đài sen,
trên đó tôn
trí tượng của
các vị Phật.
Có
tất cả 108,000
pho tượng tất
cả. Người ta
tính nếu đem
chiều dài của
các tầng kệ
này cọng lại
thì cũng được
10 dặm. Các
tượng này được
đúc bằng thạch
cao tại
Nyingma
Institute ở
Berkeley rồi
mới mang lên
Odiyan. Có
tượng màu đen
giống như đồng
đen, còn đa số
đều được phủ
một lớp kim
nhũ sáng đẹp
như thếp
vàng.
Các
tượng này đều
lấy khuôn mẫu
từ tượng gốc ở
Tây Tạng,
đường nét tinh
vi, rất nghệ
thuật. Trên
trần, được
trang trí bằng
phan và lọng,
còn trên tường
là những ấn
bản cổ họa
lồng kính, và
những bản đồng
sáng chói hình
tròn chạm trỗ
các hình tượng
hay sự tích
Phật giáo. Cứ
cách một đoạn
ngắn lại có
một bàn nhỏ
bày hương hoa
thờ phụng.
Chúng tôi đi
diễu quanh
vòng theo
chiều kim đồng
hồ, rồi được
yêu cầu dừng
lại, làm lễ
cầu nguyện và
cùng nhau tụng
bài Bát Nhã
Tâm Kinh, rồi
hồi hướng,
trước khi ra
khỏi đền.
Khu chánh điện
(Ảnh của Odiyan Center)
(Ảnh của Odiyan Center)
Khu
Chánh điện
cũng nằm trên
đỉnh đồi ,
chiếm một diện
tích rộng lớn,
hình chữ nhật,
chung quanh là
hồ nước rộng
bao bọc, kiểu
như một thành
trì ở giữa với
hào nước bảo
vệ bao quanh,
như Đại Nội ở
Huế. Mùa hè,
nước cạn nhưng
cũng đủ trong
và sâu cho mấy
chú thiên nga
bơi lội nhởn
nhơ thoải mái.
Mấy nhịp cầu
gỗ nối liền
bên ngoài với
bên trong.
Nước
Mỹ năm nào đến
mùa hè cũng
khổ vì nạn
cháy rừng.
Việc đào hồ
vừa giúp cách
ly khu Chánh
điện với núi
rừng bên
ngoài, điều
hòa nhiệt độ
trong cả hai
mùa nóng lạnh,
vừa có nguồn
nước chữa
cháy, vừa tăng
thêm vẻ mỹ
quan của công
trình, thật là
một thiết kế
tuyệt diệu.
Khu này là một
phức hợp gồm
bốn lớp hình
chữ nhật đồng
tâm.
Ở
trung tâm là
Chánh điện,
nằm ở vị trí
cao hơn hết,
với một kiến
trúc vĩ đại ba
tầng mái và
một mái vòm
bằng đồng vút
lên cao; kế
đến là lối đi
kết hợp với
sân lộ thiên,
tạo thành một
không gian
thoáng. Vòng
thứ ba, là dãy
nhà vây quanh
bốn mặt dùng
làm cơ sở văn
hóa và tu học.
Hai cái mái
vòm bằng đồng,
một của chánh
điện và một
của cổng
chính, sáng
chói nổi bật
trên nền trời.
Theo ký giả
Richard
Schein, cách
xa ngoài biển
mấy dặm cũng
có thể nhận ra
hai mái đồng
đặc biệt đó.
Những
người hướng
dẫn đưa chúng
tôi xuống tầng
hầm, thăm thư
viện của trung
tâm. Theo lời
yêu cầu của
đại sư Tulku
Tarthang,
chúng tôi cùng
ngồi xuống và
làm lễ cầu
nguyện an lạc
cho hết thảy
mọi người, sau
đó được nghe
một bài pháp
ngắn do đại sư
thuyết giảng
về sự lợi ích
và cần thiết
của việc cầu
nguyện hằng
ngày. Mọi
người được
tặng huy hiệu
của trung tâm
để kỹ niệm
chuyến hành
hương. Các vị
xuất gia được
tặng y hoặc
tượng Phật.
Khi
xâm lăng Tây
Tạng, Trung
Cộng đã tàn
phá tất cả, từ
đền chùa đến
kinh sách và
các tác phẩm
văn hóa nghệ
thuật . Người
Tây Tạng, trên
bước đường
vượt núi băng
đèo tị nạn,
ngoài miếng
cơm manh áo,
đã không quên
mang theo
tượng hoặc
tranh hoặc
kinh sách mà
họ từng thờ
phụng, trân
quí. Trung Tâm
Odiyan được
thành hình
trong mục đích
bảo tồn tất cả
những gì thuộc
di sản văn hóa
Tây Tạng còn
gìn giữ được
rải rác khắp
thế giới.
Thư
viện Odiyan
hiện tàng trữ
775 bộ kinh
sách, tổng
cọng đến một
triệu hai trăm
ngàn trang
giấy, và các
văn hóa phẩm
khác. Đó là
thành quả của
việc góp nhặt
từ những người
Tây Tạng tị
nạn và những
trung tâm
nghiên cứu
trên khắp thế
giới. Sau khi
đại sư Tulku
Tarthang hiệu
đính, các bản
văn được nhân
viên nhà xuất
bản Dharma
đóng lại bằng
tay để lưu
trữ. Cho đến
nay, Dharma đã
in được 108 bộ
sưu tập này để
phân phối lại
cho các trung
tâm Phật giáo
các nước. Tám
bộ đang nằm
chờ ở Nepal để
tìm cách đưa
vào Tây Tạng
vì nơi đây
không còn gì
nữa.
Sau
khi viếng khu
Chánh điện,
chúng tôi được
hướng dẫn đến
chỗ giải lao,
nằm trong hoa
viên của trung
tâm. Tại đây,
các thành viên
đang chờ để
chiêu đãi
khách hành
hương với nước
trà, cà phê,
sữa và thức ăn
chay đơn giản
với các loại
trái cây, bánh
mì và Tortila
chips. Chừng
nửa giờ sau,
chúng tôi tiếp
tục viếng bảo
tháp Giác Ngộ
(The Great
Enlightenment
Stupa ), cao
113 bộ (feet),
một công trình
để ca ngợi trí
tuệ cao cả của
Đức Phật.
Tính
từ nền lên đến
đỉnh, tháp có
tám tầng. Màu
vàng kim nhũ
chói lọi của
bảo tháp nổi
bật trên nền
trời và màu
xanh của rừng
thông. Có tám
sợi dây thép
lớn căng từ
đỉnh tháp tỏa
xuống ra tám
hướng, cứ một
sợi treo cờ
thì một sợi
treo cả trăm
cái chuông nhỏ
bằng đồng.
Trong gió núi,
cờ phất phới
với chuông reo
vui nho nhỏ.
Hình của bảo
tháp Giác Ngộ
được dùng làm
huy hiệu của
Trung tâm
Odiyan.
Bảo tháp Giác Ngộ
(Hình
của Odiyan
Center)
Tháp
được bao bọc
bởi bốn dãy
nhà nhỏ, mái
sơn màu xanh
lục, làm thành
một vòng rào
kín hình vuông
với một cổng
ra vào. Bên
trong bốn dãy
nhà này là
những bánh xe
cầu nguyện
bằng đồng đang
ngày đêm vận
hành, như bên
đền Liên Hoa
vậy. Theo ghi
nhận của phóng
viên báo San
Jose Mercury
News, trung
tâm có tất cả
1,200 bánh xe
như thế, trong
đó, bánh xe
lớn nhất nặng
mười tấn đặt
trong bảo
tháp. Chúng
tôi không được
chiêm ngưỡng
bánh xe này.
Bước
vào cổng, mùi
hương trầm và
tiếng đại hồng
chung vang lên
làm tôi trong
phút chốc
tưởng như đang
viếng một ngôi
chùa nào đó ở
Huế. Tôi đưa
mắt tìm kiếm:
chuông được
treo ngay ở
giữa cổng ra
vào, cỡ trung
bình, nhưng âm
thanh của
chuông vang
vọng rất lâu.
Khi
hệ thống ABC
phát hình về
Odiyan tôi đã
được nghe
tiếng chuông
này và có một
ấn tượng sâu
xa về cái ngân
vang của nó.
Người ta nói
khắp trung tâm
đều nghe được
tiếng đại hồng
chung. Tôi tìm
kiếm người
đánh chuông để
xem thử chuông
được đánh bằng
cách nào, có
giống như ở
Việt Nam
không.
Trong
vùng ánh sáng
mờ mờ, một đạo
hữu người Mỹ
đang đẩy chiếc
chày treo lơ
lửng vào chiếc
chuông, tạo
nên một âm
thanh đầy đạo
vị. Thì ra
cũng “dộng
chuông” như ở
Việt Nam . Ông
ta lặng lẽ mỉm
cười đáp lại
cái chào của
tôi. Hai người
Mỹ râu ria xồm
xoàm đang thu
hình đoàn hành
hương và bảo
tháp. Hẳn họ
thuộc một tổ
chức truyền
hình nào đó,
vì máy móc
thấy rất
chuyên nghiệp.
Chúng tôi đi
diễu một vòng
chung quanh
tháp, đảnh lễ
trước cửa tháp
một lần nữa
rồi trở ra.
Nội
qui không cho
phép quay phim
chụp ảnh nhưng
Trung tâm
Odiyan có một
nơi bán bưu
ảnh kỹ niệm và
những ấn phẩm
như sách, báo,
họa phẩm, do
nhà xuất bản
Dharma ấn
hành. Hầu như
mọi người đều
ghé vào đây để
kiếm chút gì
kỹ niệm cho
chuyến đi. Ba
giờ rưỡi
chiều, xe khởi
hành trở về
San José.
Khi
loan tin về sự
hoàn thành vĩ
đại của Trung
tâm Phật giáo
Odiyan, ký giả
Richard
Scheinin của
San Jose
Mercury News
(10/6/96) đã
dùng tiêu đề
“Phật đến
phương Tây” để
đặt tên cho
bài báo và cho
rằng sự thành
hình của cơ sở
này là một
“đại tuyên cáo
rằng truyền
thống Phật
giáo Tây Tạng
đã đâm rễ sâu
xa ở phương
Tây.” Lời ca
ngợi đó có hơi
cường điệu,
nhưng Odiyan
sẽ đóng một
vai trò quan
trọng không
thể chối cãi
trong việc
truyền bá Phật
giáo trên đất
Mỹ.
Cái
tên Odiyan đối
với tôi trở
thành đồng
nghĩa với tín
tâm và kiên
trì. Không có
hai chất liệu
đó thì không
có Odiyan. Ấn
tượng còn lại
trong tôi sau
chuyến đi
không phải là
những đền đài
đồ sộ hay bảo
tháp nguy nga
mà là cung
cách chắp tay
vái chào đầy
đạo vị của các
đạo hữu tiếp
tân ở Odiyan.
Tôi không thấy
có người Việt,
người Mỹ,
người ........
, người Đức,
người . . . ở
đó.......................
Chỉ
toàn là Phật
tử.
VÕ HƯƠNG AN
VÕ HƯƠNG AN
With
all my best
wishes
quá đẹp
Trả lờiXóa