Giai Thoại Văn Chương : Bích Vân Thiên, Hàn Yên Thúy.
Truyện Tình của
Phán Quan PHẠM TRỌNG YÊM
Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu...
PHẠM TRỌNG YÊM 范仲淹 (989-1052) tự là Hy Văn 希文. Tổ quán ở Phần
Châu, sau di dời về Ngô Huyện của Tô Châu. Ông là nhà Văn học và là nhà
chính trị kiệt xuất của thời Bắc Tống. Văn võ song toàn, trí dũng hơn
người, bất cứ là ở trong triều hay ngoài biên cương đều chu toàn trách
nhiệm một cách xuất sắc. Ông vận động cho sự đổi mới của Khánh Lịch Cách
Tân, mở đầu cho Hy Ninh biến pháp của Vương An Thạch sau nầy.
Sự thành tựu về mặt văn học của ông cũng rất đột xuất nổi trội.
Ông đề xướng chủ trương "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, Hậu thiên hạ chi
lạc nhi lạc 先天下之憂而憂,后天下之樂而樂". Có nghĩa là người ra làm quan, là phụ mẫu
chi dân thì phải biết "Lo cái lo trước thiên hạ và Vui cái vui sau thiên
hạ". Với cái tiết tháo và tư tưởng nhân hòa nầy đã ảnh hưởng rất lớn
đến tư tưởng của các đời sau.
Phạm Trọng Yêm cũng nổi tiếng là một ông quan nghiêm minh chính
trực, xử án như thần, khiến cho ông quan cùng thời là Bao Chửng 包拯, nổi
tiếng là Bao Thanh Thiên 包青天 cũng phải bái phục và xem ông như là bậc
thầy trong xử án. Truyện kể...
Trong một lần gặp nhau ở phủ Khai Phong, Bao Chửng đã nói với Phạm
Trọng Yêm rằng :"Hy Văn huynh, nghe nói anh là người túc trí đa mưu,
thông minh chính trực, xử án như thần. Hiện trong phủ tôi đang xảy ra
một vụ án gia đình rất nhiêu khê, tôi không biết phải xử lý như thế nào,
nhờ anh giúp hộ cho". Phạm Trọng Yêm vui vẻ nhận lời. Vụ án như thế nầy
:
Đất Càn Châu
của tỉnh Thiểm Tây có hai anh em nhà họ Thường; Anh là Thường Tụng Ân,
em gái là Thường Ái Hoa. Cha mẹ mất sớm, anh em sống nương tựa lẫn nhau.
Thường Tụng Ân có vợ là Trương Thị; Thường Ái Hoa lấy phải chồng nhà
nghèo, nên thường về nhà anh nhờ giúp đỡ gạo tiền. Thường Tụng Ân thương
em nên luôn sẵn lòng giúp đỡ, nhưng bà chị dâu Trương Thị thì lại bất
mãn vì cô em chồng cứ trường kỳ nhờ vã mãi. Một hôm, biết cô em chồng
lại sắp đến mượn gạo mượn tiền, nên Trương Thị đã đến miếu Thành Hoàng
cạy cho ngạch cửa bung ra rồi chỉ gá sơ lại. Khi thấy cô em chồng đến
mượn gạo thì giả vờ nói là trời sắp trở lạnh, nên nhờ cô em chồng tiếp
may dùm vài chiếc mền mới. Dĩ nhiên là Ái Hoa vui vẻ nhận lời. Trong khi
cắt vải nhồi bông, Trương Thị cố ý chìa ngón tay có đeo chiếc nhẩn vàng
cho cô em chồng trông thấy, rồi khi may thì lại lén dấu nó vào trong
góc mền. Khi đã giúp chị dâu may xong mấy chiếc mền, Ái Hoa định từ biệt
để ra về, thì Trương Thị lại hô hoán lên là mất chiếc nhẫn vàng, rồi
luôn miệng cho là cô em chồng đã lén lấy cắp của mình. Sau một hồi đôi
co, hai chị em cùng kéo nhau đến miếu Thành Hoàng để thề. Ái Hoa thề
rằng : Nếu mình lấy cắp chiếc nhẫn vàng của chị dâu thì khi ra cửa sẽ bị
té cho gãy chân. Thề thốt xong hai người cùng ra cửa. Trương Thị đi
trước một bước đạp cho ngạch cửa bung lên, Ái Hoa đi sau vấp phải ngạch
cửa té nhào xuống đất gãy mất chân phải, đau tới thấu xương, nhưng
Trương Thị thì lại nghiến răng nói rằng : Đáng đời cho đứa ăn cắp, thề
đâu thì lại có đó ngay, không ăn cắp sao lại vừa thề đã té gãy chân. Bèn
khóc bù lu bù loa về kể lể với chồng. Thường Tụng Ân biết em gái mình
hồi nào đến giờ rất ngay thẳng thực thà, nhưng sự việc rành rành trước
mắt cũng không biết nói sao, chỉ quảy theo túi gạo rồi đưa cô em gái về
lại nhà chồng. Mấy hôm sau, Trương Thị vẫn không chịu bỏ qua vì thấy
mình đúng lý và vì muốn làm cho cô em chồng sắp tới không còn dám vác mặt đến nhờ cậy nữa, nên bèn thưa lên Bao Công nhờ phân xử.
Phạm Trọng Yêm tiếp nhận vụ án. Cho đòi hết ba người lên công đường
chờ xét xử. Đầu tiên, Phạm Trọng Yêm quan sát nét mặt của từng người một
một cách cẩn thận, Đoạn ông lấy ba tờ giấy trắng vẽ lên ba chiếc vòng
tròn rồi phát cho mỗi người một chiếc, lệnh cho đứng qua một bên chờ
thẩm án. Trước tiên, ông cho đòi Thường Ái Hoa qùy trước công đường chờ
xét hỏi. Ái Hoa qùy dưới công đường gần một tuần trà vẫn không nghe quan
hỏi gì, bèn len lén nhìn lên, thấy hai bên công sai đứng nghiêm chỉnh
mặt đầy sát khí, còn quan phủ thì đang quắc mắt nhìn mình, thất kinh cúi
xuống không dám nhìn lên nữa. Đợi đến một thôi một hồi, vẫn không thấy
quan hỏi gì, bèn đánh bạo thưa rằng : Đại Lão Gia đòi dân phụ đến
công đường sao không tra hỏi gì cả vậy? Phạm Trọng Yêm bèn nghiêm nghị
bảo rằng : Ta đâu cần phải tra hỏi, ngươi cứ nhìn vào tờ giấy mà ta đưa
cho ngươi rồi cứ thành thật mà nói cho ta biết. Ái Hoa thấy trên tờ giấy
có một vòng tròn như cái miệng giếng bèn thưa rằng : Bẩm Đại lão Gia,
trên thế gian nầy quả có lắm chuyện không thể nào làm cho rõ ràng được,
cái vòng tròn của lão gia vẽ như là một miệng giếng, cái oan ức của dân phụ ngày
hôm nay chắc sẽ chìm sâu dưới đáy giếng nầy mà sẽ không bao giờ rửa
sạch được. Phạm Trọng Yêm nghe xong gụt gặt đầu bảo tả hữu : Dẫn nàng ta
xuống, rồi cho đòi Thường Tụng Ân lên công đường. Thường Tụng Ân cũng
qùy mãi mà chẳng nghe quan lão gia hỏi gì cả, bèn cả gan đánh tiếng rằng
: Bẩm Đại Lão Gia sao không tra hỏi gì cả vậy ?! Phạm Trọng Yêm đáp
rằng : Ngươi cứ nhìn vào tờ giấy mà ta đã đưa cho người đó, rồi nói
thẳng cho ta biết là được rồi !. Thường Tụng Ân nhìn vào cái vòng tròn
một lúc rồi như có chút cảm xúc mà bẩm rằng : Cái vòng tròn nầy giống
như là gia đình của tiểu dân đây, chỉ có ba người, hai vợ chồng tiểu dân
và cô em gái. Tiểu dân cứ như bị xoay quanh cái vòng lẩn thẩn giữa cô
em gái khốn cùng và bà vợ câu mâu mãi suốt ngày này qua tháng nọ mà
không bao giờ thoát ra được. Phạm Trọng Yêm bèn cho Tụng Ân lui xuống và
cho gọi Trương Thị lên công đường. Trương Thị vừa bước lên công đường
thì Phạm Trọng Yêm đã gỏ mạnh miếng gỗ xuống bàn và quát lơn : Quỳ xuống
! Hai bên hai hàng công sai lại đồng thanh hô vang : Uy vũ ! Trương Thị
hồn phi phách tán vội vàng qùy ngay xuống chờ thẩm vấn, nhưng vẫn như
hai lần trước, quỳ mãi mà chẳng nghe quan hỏi han gì cả. Trong bụng hồ
nghi thấp thỏm không yên. Lén nhìn lên thì thấy quan đang quắc mắt nhìn
mình, nên trong lòng càng kinh hãi. Được thêm một lúc mới dám đánh bạo
mà hỏi rằng : Bẩm Đại Lão Gia sao không tra hỏi gì cả vậy ?. Phạm Trọng
Yêm bèn nạt rằng : Sao không tra hỏi ?! Ngươi cứ theo những gì mà ta đã
vẽ nói thực ra hết là được rồi ! Trương Thị càng kinh hãi hơn, nhìn vào
cái vòng tròn như cái thòng lọng, trong bụng hồ nghi mười phần là quan
đã đoán được việc làm của mình, bèn thành thực khai rằng : Qủa tình tôi
đã bày ra cái thòng lọng này cho cô em chồng nhảy vào để giựt giây, vì
tôi không chịu nỗi cô ta cứ lẽo đẽo đi theo nhờ cậy xin xỏ mãi. Tôi muốn
làm một trận dứt khoát cho từ rày tới sau cô ta không còn theo làm
phiền vợ chồng chúng tôi nữa. Mong Đại Lão Gia soi xét mà châm chước cho
tôi nhờ.
Thế là mọi việc
đều rõ ràng chỉ nhờ vào ba cái vòng tròn được vẽ trên giấy. Bao Chửng
thấy Phạm Trọng Yêm xử án một cách thông minh nhe nhàng mà hiệu quả.
Trong lòng thực sự tâm phục khẩu phục mà nói rằng :" Các hạ quả là bực
thầy xử án mà ta cần học tập".
Tương truyền sự nghiêm minh chính trực của Phạm Trọng Yêm rất được dân
chúng ca tụng và kính phục, nên khi chết đã được vinh danh cùng Khấu
Chuẩn cũng là một danh thần đương thời được thờ phụng trong thành Phong
Đô của Diêm Vương như một Phán Quan dưới âm tào địa phủ.
Bao Chửng (Bao Công) Phạm Trọng Yêm
Về mặt văn chương và đời sống tình cảm, thì Phạm Trọng Yêm lại là
một nòi tình chính hiệu. Khi bị biếm đi làm Tri Châu ở Nhiêu Châu. Một
hôm ông buồn tình đã uống rượu ngà say rồi ghé qua kỹ viên Khánh Sóc
Đường 慶朔堂. Tình cờ gặp một cô ca kỹ còn rất trẻ, nhưng lại giỏi cả cầm
kỳ thi họa. Hỏi ra thì mới biết nàng tên là Chân Nguyệt Nga, chỉ mới có
12 tuổi, nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy nên phải sa chân vào kỹ viện. Xót
thương cho hoàn cảnh và tài hoa cũng như sắc đẹp như hoa vừa mới chớm nở
của nàng, nên Phạm Trọng Yêm thường tới lui thăm hỏi xướng họa. Sỡ dĩ
chưa chuộc nàng ra khỏi lầu xanh, vì bà chánh thê ở nhà đang ngọa bệnh,
lại nữa thân đang bị trích biếm tha phương. Năm sau được lệnh vua triệu
hồi kinh sư, Phạm Trọng Yêm đã gởi lại cho nàng một hộp son phấn với bài thơ đề như sau :
江南有美人, Giang Nam hữu mỹ nhân,
別後常相憶。 Biệt hậu thường tương ức.
何以慰相思, Hà dĩ ủy tương tư,
贈汝好顏色. Tặng nhữ hảo nhan sắc !
Có nghĩa :
Thương thay người đẹp Giang nam,
Biệt ly nhớ mãi biết làm sao đây.
Tương tư trĩu nặng lòng nầy,
Tặng nàng trang điểm đong đầy dung nhan.
Đồng thời Phạm Trọng Yêm cũng làm một bài thơ "Hoài Khánh Sóc Đường 懷慶朔堂" gởi lại cho người bạn chí thân là Ngụy Giới như sau :
慶朔堂前花自栽, Khánh Sóc Đường tiền hoa tự tài,
便移官去未曾開。 Tiện di quan khứ vị tằng khai.
年年憶時別離恨, Niên niên ức thời biệt ly hận,
祇託東風管領來。 Chỉ thác đông phong quản lãnh lai !
Có nghĩa :
Khánh Sóc Đường hoa kia tự mọc,
Chưa khai hoa ta chuyển đi rồi.
Năm năm tưởng nhớ hờn ly biệt,
Nhờ gió đông xuân đưa đến nơi.
Ngụy Giới hiểu ý của Phạm Trọng Yêm, nên hai năm sau đã âm thầm
tiếp xúc với Khánh Sóc Đường chuộc Chân Nguyệt Nga ra và đưa nàng về
kinh thành trao tặng lại cho Phạm Trọng Yêm. Lúc bấy giờ chánh thê của
Phạm Trọng Yêm cũng đã qua đời hơn năm rồi. Đang sống cảnh độc thân gặp
lại người yêu cũ, hai người cùng cảm khái ôm chầm lấy nhau kể lể nỗi
niềm tưởng nhớ. Càng cảm động hơn là sau đêm tân hôn động phòng hoa
chúc, Phạm Trọng yêm phát hiện ra rằng nàng vẫn còn giữ được trinh
nguyên trong trắng. Nàng đã thỏ thẻ với Phạm Trọng Yêm rằng : Thời gian ở
trong kỹ viện, thiếp chỉ bán nghệ chớ không bán thân. Lúc
bấy giờ Chân Nguyệt Nga chỉ mới vừa tròn 15 tuổi, trong khi Phạm Trọng
Yêm đã 50 tuổi rồi. Mối tình một già một trẻ lại rất khắng khích nhau
trong cuộc sống hạnh phúc lứa đôi. (Đó là xã hội khi xưa, nếu là hiện nay, thì Phạm Trọng Yêm sẽ phải ra hầu tòa vì kết hôn với trẻ vị thành niên!).
Đến đời nhà Minh, Châu Hiến Vương Chu Hữu Đôn đã cảm vì chuyện
tình nầy của Phạm Trọng Yêm mà soạn thành vở tạp kịch "Chân Nguyệt Nga
xuân phong Khánh Sóc Đường 甄月娥春風慶朔堂" nỗi tiếng một thời.
Ngoài nổi tiếng với áng văn "Nhạc Dương Lầu Ký ra 岳陽樓記" ra, Phạm Trọng
yêm còn rất nổi tiếng với những bài từ trữ tình ướt át không thua gì
thơ mới của thời hiện đại. Cụ thể như bài "Tô Mạc Già. Bích
Vân Thiên 蘇幕遮 · 碧雲天" đã được nữ sĩ Quỳnh Dao lấy làm tựa đề cho hai
quyển tiểu thuyết ngôn tình "BÍCH VÂN THIÊN 碧雲天" và "HÀN YÊN THÚY 寒烟翠" (Bên Bờ Quạnh Hiu) rất nổi tiếng được quay cả thành phim và đưa vào nghệ thuật Cải Lương của ta nữa. Bài từ đó như sau :
碧雲天,黄葉地, Bích vân thiên, hoàng diệp địa,
秋色連波,波上寒烟翠。 Thu sắc liên ba, ba thượng Hàn Yên Thúy.
山映斜陽天接水, Sơn ánh tà dương thiên tiếp thủy,
芳草無情,更在斜陽外。 Phương thảo vô tình, cánh tại tà dương ngoại.
黯鄉魂,追旅思, Ảm hương hồn, truy lữ tư,
夜夜除非,好夢留人睡。 Dạ dạ trừ phi, hảo mộng lưu nhân thụy.
明月樓高休獨倚, Minh nguyệt lâu cao hưu độc ỷ,
酒入愁腸,化作相思淚。 Tửu nhập sầu trường, hóa tác tương tư lệ !
Có nghĩa :
Trời mây xanh biếc, đất phủ lá vàng,
Sắc thu làm gợn sóng, trên sóng khói sóng xanh lơ.
Sắc núi phản chiếu nắng chiều trong cảnh trời nước như liền nhau.
Cỏ non mơm mởn vô tình như đang ở ngoài ánh nắng chiều.
Hồn quê mòn mõi, đất khách nhớ mong,
Đêm đêm đều chẳng có được giấc mộng đẹp để an giấc.
Lầu cao trăng sáng thôi đừng tựa cửa ngóng trông,
Rượu vào trong ruột âu sầu lại hóa thành những giọt lệ tương tư lên mắt !
* Diễn Nôm :
Trời xanh biếc, lá vàng hoe,
Nước thu gợn sóng, trên sông khói sóng nhòe.
Núi ửng nắng chiều trời liền nước,
Cỏ non mơn mởn, bỏ mặc nắng chiều về.
Hồn quê ngẩn, khách sầu ngơ,
Đêm đêm khó ngủ, giấc mộng chẳng thành mơ.
Trăng sáng lầu cao thôi ngóng đợi,
Rượu vào ruột đứt hóa lệ tương tư mờ !
* Song Thất Lục Bát :
Trời mây biếc lá vàng đầy đất,
Sóng thu xanh chất ngất xanh lơ,
Nắng chiều trời núi như thơ,
Cỏ non mơn mởn nắng mờ xa xa.
Hồn nhớ quê xót xa lữ thứ,
Đêm đêm buồn khôn ngủ khó mơ,
Lầu cao trăng sáng ngẩn ngơ,
Rượu vào ruột đứt lệ mờ tương tư !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.
Bích vân Thiên (chuyển thể Cải Lương với Vũ Linh) Hàn Yên Thúy (Bên Bờ Quạnh Hiu)
Phạm Trọng Yêm chẳng những là nhà chính
trị, quân sự tuyệt vời, là một ông quan thanh liêm nghiêm minh chính
trực, mà còn là một nhà văn học, nhà thơ, nhà từ tuyệt vời của thời Bắc
Tống nói riêng, của nền văn học Trung Hoa nói chung. Hễ nhắc đến Phạm
Trọng Yêm là người ta nghĩ ngay đến "Nhạc Dương Lâu Ký 岳陽樓記",
mà hễ nhắc đến "Nhạc Dương Lâu Ký" là người ta lại nghĩ ngay đến câu :
"Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc 先天下之憂而憂,后天下之樂而樂".
Còn giới trẻ hiện nay, nhắc đến nữ sĩ Quỳnh Dao là mọi người đều biết
đến hai quyển tiểu thuyết ngôn tình tuyệt vời của bà là "BÍCH VÂN THIÊN
碧雲天" và "HÀN YÊN THÚY 寒烟翠" (Bên Bờ Quạnh Hiu), nhưng lại không biết tựa của 2 quyển tiểu thuyết đó có xuất xứ từ bài từ "Tô Mạc Già. Bích Vân Thiên 蘇幕遮 · 碧雲天" của Phạm Trọng yêm bao giờ !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
2./
bài rất hay
Trả lờiXóa