Giai Thoại Văn Chương :
Bài Thơ MẪN NÔNG Thứ Ba ?
Lý Thân và bài thơ MẪN NÔNG thứ ba ?
Nối tiếp theo những câu truyện nói lên "Hai Nhân Cách" của thi nhân
Lý Thân là "Bài thơ Mẫn Nông thứ ba" của ông được tìm thấy trong "Đường
Triều Tàn Quyển 唐朝残卷", được khai quật gần đây trong hang động Đôn Hoàng
của tỉnh Cam Túc, có ghi lại tích sau đây :
Mùa hạ năm đó Lý Thân 李紳 về Hào Châu để thăm lại thân bằng quyến
thuộc, cũng cùng lúc với Giang Đông Tiết Độ Sứ Lý Phùng Cát 李逢吉 về
triều trình tấu, đi ngang qua Hào Châu. Hai người trước đó là bạn đỗ
cùng khoa, cùng bảng Tiến sĩ, lại cùng là bạn văn thơ với nhau, nên gặp
nhau rất là tương đắc. Sau tiệc mừng gặp cố tri, ngày hôm sau hai bạn
cùng nắm tay lên tận Quan Giá Đài (Đài dùng để quan sát, nhìn ngắm) của thành đông để ngắm cảnh núi sông, ruộng đồng non nước. Trước cảnh non sông ngàn dặm, Lý Phùng Cát cảm khái mà ngâm rằng :
何得千里朝野路, Hà đắc thiên lý triều dã lộ,
累年遷任如登台。 Lũy niên thiên nhậm như đăng đài !
Có nghĩa :
Sao được đường quan ngàn dặm đó,
Năm năm thay bậc tựa leo đài !
Cảm khái cũng không quên tiến thủ, ông ước mơ cho con đường làm
quan ngàn dặm của mình, mỗi năm mỗi bậc thuyên chuyển lên cao mãi, suông
sẻ như là các bậc thang leo lên trên đài cao nầy vậy. Còn Lý Thân ngắm
cảnh trên cao với một góc độ khác, ông trông thấy cảnh giữa trưa nắng
gắt như thế nầy mà các nông phu vẫn phải cày sâu cuốc bẫm ngoài đồng
ruộng, mới buộc miệng ngâm rằng :
鋤禾日當午, Sừ hòa nhật đang ngọ,
汗滴禾下土。 Hạn trích hòa hạ thổ.
誰知盤中餐, Thùy tri bàn trung xan,
粒粒皆辛苦。 Lạp lạp giai tân khổ !
Có nghĩa :
Cuốc cày giữa ngọ ban trưa,
Mồ hôi đổ xuống như mưa lúa trồng.
Ai người biết cơm trong mâm,
Từng hạt từng hạt muôn phần đắng cay !
Lý Phùng Cát nghe xong khen lấy khen để, cứ luôn miệng nói là bài
thơ thật tuyệt diệu : Mỗi hạt cơm hạt gạo chúng ta ăn đều do công sức
và mồ hôi nước mắt của nông dân mới có được. Lý Thân ngửa mặt lên trời
thở dài một tiếng ngâm tiếp bài thơ thứ 2 :
春種一粒粟, Xuân chủng nhất lạp túc,
秋收萬顆子。 Thu thâu vạn khỏa tử.
四海無閒田, Tứ hải vô nhàn điền,
農夫猶餓死。 Nông phu do ngạ tử !
Có nghĩa :
Mùa xuân một hạt gieo trồng,
Đến thu thu hoạch muôn lần nhiều hơn.
Khắp nơi chẳng có ruộng hoang,
Nông dân đói chết vẫn còn khắp nơi !
Lý Phùng Cát nghe xong, thầm nghĩ rằng : Đây chẳng phải là những
lời chê trách triều đình vua quan chẳng quan tâm đến đời sống khốn khó
của quần chúng nông dân hay sao ? Quả là đáng chết! Nên khi về đến thư
phòng, Lý Phùng Cát mới nói với Lý Thân rằng :"Bạn có thể chép lại hai
bài thơ khi nảy để tặng cho tôi không, để kỷ niệm và cũng để không uổng
phí công sức vì chúng ta đã cùng đăng cao ngắm
cảnh chung với nhau một chuyến". Lý Thân trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi
nói rằng :"Hai bài thơ chỉ có bốn mươi chữ, bạn nghe qua chắc đã cũng
nhớ rõ trong lòng rồi, cần chi phải viết lại; Còn như muốn có bút tích
của tôi thì tôi sẽ viết tặng bạn một bài thơ mới làm ngay bây giờ". Lý
Phùng Cát lở bộ đành phải nói xuôi theo:"Cũng được, thế lại càng qúy hoá
lắm !" nhưng trong lòng rất thất vọng, vì bản thân y muốn có được bài thơ có ý "phản động" kia hơn. Lý Thân bèn chuẩn bị giấy mực, sáng tác và viết ngay lên giấy hoa tiên bài MẪN NÔNG thứ 3 như sau :
壟上扶犁兒, Lũng thượng phù lê nhi,
手種腹長飢。 Thủ chủng phúc trường ki (cơ).
窗下織梭女, Song hạ chức thoa nữ,
手織身無衣。 Thủ chức thân vô y.
我愿燕趙姝, Ngã nguyện Yên Triệu thù,
化为嫫女姿。 Hóa tác Mô Nữ ti (tư).
一笑不值錢, Nhất tiếu bất trị tiền,
自然家國肥。 Tự nhiên gia quốc phì !
Có nghĩa :
Những chàng trai đang ngã tay cày trên luống cày; Tay trồng lúa
nhưng bụng lại đói dài dài. Các cô gái ngồi dệt dưới song cửa sổ; Tay
dệt vải nhưng trên mình chẳng có được manh áo mới nào cả. Ta ước gì các
cô gái đẹp của nước Yên nước Triệu đều hóa thành bà Mô Mẫu là bà phi thứ
tư xấu như ma của vua Huỳnh Đế (nhưng lại rất đãm đang). Nụ cười của họ
sẽ không đáng ngàn vàng nữa, nhưng tự nhiên nhà nước sẽ giàu thêm ra.
Diễn Nôm :
Nông phu trên luống cày,
Tay trồng bụng đói dài.
Dưới song cô gái dệt,
Tay dệt không áo may.
Ước gái đẹp Yên Triệu,
Như ma xấu hoài hoài.
Nụ cười không đáng giá,
Tự nhiên nước giàu ngay !
Lý Phùng Cát trông thấy bài thơ, chuyển thất vọng thành vui mừng.
Lòng mừng khấp khởi vì thấy lời lẽ của bài thơ nầy chê trách vua quan và
triều đình còn thậm tệ hơn là bài thơ trước nữa. Nhất là các câu cuối
như có ý chê trách nhà vua chỉ quan tâm và phung phí tiền bạc trên mình
các người đẹp mà không chăm lo đến đời sống của nông dân nghèo khổ.
Ngoài mặt thì Lý Phùng Cát tỏ ra rất thân thiện và nể phục tài làm thơ
của Lý Thân, nhưng trong bụng thì ngầm tính toán là sẽ mượn "cái bàn đạp
Lý Thân" nầy để thăng quan tiến chức thêm một bậc nữa.
Hôm sau bèn giả biệt Lý Thân rời khỏi Hào Châu để về kinh thành. Sau
khi diện kiến nhà vua để trình tấu mọi việc xong xuôi, thì lại tâu riêng
với nhà vua rằng :"Hàn Lâm Học Sĩ Lý Thân đã làm thơ phản nghịch chê
trách triều đình để hả giận trong lòng". Đường Võ Tông hoàng đế lấy làm
lạ hỏi rằng :"Khanh có gì làm bằng chứng không ?" Lý Phùng Cát bèn trình
bài thơ Mẫn Nông Kỳ Tam do chính tay Lý Thân viết lên cho nhà vua xem.
Vua xem xong trầm ngâm không nói gì cả.
Buổi
thiết triều sáng hôm sau, vua Đường Võ Tông hạ chiếu triêu hồi Lý Thân
về triều. Trước mặt bá qua văn võ, nhà vua cất tiếng phán rằng :"Trẫm ở
trên ngôi cao lâu ngày, quên mất thăm hỏi về dân tình, may nhờ có Lý
Phùng Cát tiến cử trình lên bài thơ Mẫn Nông của Hàn Lâm Học Sĩ Lý Thân
nhắc nhở về dân tình. Nay trẫm thăng cho Lý Thân lên làm Thượng Thư Hữu
Bộc Xạ (tương đương như chức Hữu Thừa Tướng) để giúp trẫm cùng bàn việc
triều chính, trị quốc an dân". Sau khi tạ ơn nhà vua, Lý Thân cũng đã
đích thân đến phủ tạ ơn Lý Phùng Cát đã có lòng tiến cử cho mình, làm cho Lý Phùng Cát đâm ra thật ngỡ ngàng : Định hại người thành ra giúp người, định dìm người khác xuống để mình được thăng quan, không ngờ lại giúp cho người ta thăng quan tiến chức cao hơn mình nữa. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau nhà vua cũng biết được thâm ý sàm tấu của Lý Phùng Cát, nên Lý đã bị giáng chức và bị biếm đi đến vùng Vân Nam xa xôi làm Quan Sát Sứ.
Về bài thơ MẪN NÔNG thứ 3 của Lý Thân vì trình lên cho nhà vua nên
được giữ lại trong cung; mãi cho đến gần đây khi khai quật thạch động
Đôn Hoàng ở tỉnh Cam Túc mới phát hiện trong "Đường Triều Tàn Quyển 唐朝残卷".
Nên bài thứ 3 nầy không được phổ biến rộng rãi như bài 1 và bài 2. Nhất
là bài đầu (theo giai thoại nầy) gần như trong giới bình dân già trẻ gì
đều biết cả. Ngay cả ca dao của Việt Nam ta cũng có bài nghi là bản
phỏng dịch tuyệt vời của bài thơ nầy :
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!
Trở lại với Trương Hựu Tân 張又新, một đối thủ chính trị từng hại cho
Lý Thân suýt chút nữa thì bị chém đầu. Nhưng khi Trương Hựu Tân bị bãi
quan rồi lâm nạn, ghe chìm con chết, ngỏ lời tạ lỗi, thì chẳng những Lý
Thân không trả oán, mà còn mời Trương Hựu Tân đến nhà để đãi đằng. Trong
bửa tiệc Trương Hựu Tân tình cờ gặp lại cô ca kỹ mà mình đã giao tình
khi làm quan ở đất Quảng Lăng hồi 20 năm trước. Nên đã xúc động mà làm
bài thơ tứ tuyệt TẶNG QUẢNG LĂNG KỸ 贈廣陵妓 (Tặng nàng ca kỹ đất Quảng Lăng) :
雲雨分飛二十年, Vân vũ phân phi nhị thập niên,
當時求夢不曾眠。 Đương thời cầu mộng bất tằng miên.
今來頭白重相見, Kim lai đầu bạch trùng tương kiến,
還上襄王玳瑁筵。 Hoàn thướng Tương Vương đại mạo diên !
Có nghĩa :
Mây mưa cách biệt hai mươi năm,
Chưa mộng hằng mơ thổn thức lòng.
Đầu bạc hôm nay còn gặp lại,
Tương Vương tiệc rượu hết còn mong !
Đầu bạc hôm nay còn gặp lại
Khi nàng ca kỹ ngâm nga và hát bài thơ trên theo lối Nhạc phủ, thì
cả nàng và Trương Hưu Tân đều ngậm ngùi rơi lệ; và Lý Thân đã làm một
cử chỉ thật đẹp là trả nàng ca kỹ năm xưa lại cho Trương Hựu Tân để hai
người được đoàn tụ bên nhau. Nghĩa cử nầy của Lý Thân làm cho ta lại nhớ
đến tích GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH giữa Từ Đức Ngôn và Lạc Xương Công Chúa của
thời Nam Bắc Triều.
Còn về bài thơ của "Tô Châu Thứ Sử" Lưu Vũ Tích vì có tựa là "Tặng Lý Tư Không Kỹ 贈李司空妓". Có nghĩa là "Bài thơ làm riêng tặng cho nàng ca kỹ của Lý Tư Không" Nên lại có thể hiểu như sau :
Thi hào LƯU VŨ TÍCH 劉禹錫(772—842)khi bị biếm làm Thứ Sử đất Tô
Châu (833), Lý Thân nghe tiếng và cũng mến mộ tài văn thơ của ông, bèn
mời ông đến và thiết tiệc khoản đãi. Buổi tiệc thật xa hoa với đầy đủ
các sơn hào hải vị, mỹ tửu quỳnh tương, dưa ngon trái ngọt. Có một nàng
ca kỹ thật đẹp ăn mặc như các cung nữ trong cung vua và lại ca múa hát
khúc "Đỗ Vi Nương" trong cung đình. Lưu Vũ Tích đã choáng ngợp trước
buổi tiệc qúa cao sang xa hoa nầy và bàng hoàng trước vẻ đẹp sắc nước
hương trời của nàng ca kỹ, nên Ông đã xúc động mà viết bài thơ tứ tuyêt
"Tặng Lý Tư Không Kỹ 贈李司空妓" (Tặng nàng ca kỹ của ông Tư Không họ Lý) với
những lời lẽ ngưỡng mộ như sau :
高髻雲鬟宮樣妝, Cao kế vân hoàn cung dạng trang,
春風一曲杜韋娘。 Xuân phong nhất khúc Đỗ Vi Nương.
司空見慣渾閒事, Tư Không kiến quán hồn nhàn sự,
斷盡蘇州刺史腸。 Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường !
Có nghĩa :
Tóc kết cung đình mây lướt trôi,
"Đỗ Vi Nương" khúc hát chơi vơi.
Tư Không quen mắt không cho lạ,
Thứ Sử Tô Châu ruột đứt rồi !
Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường !
Ông là quan lớn Tư Không, đã quen sống xa hoa và nhìn ngắm các giai
nhân đẹp như tiên nga, hát hay múa giỏi như thế nầy quen rồi, nên cho
là chuyện bình thường không có gì là lạ cả. Nhưng đối với chức quan nhỏ
nhoi Thứ Sử Tô Châu như tôi, thì đối diện với bửa tiệc cao sang và nhất
là đối diện với giai nhân tuyệt sắc như thế nầy, làm cho tôi xúc cảm
rung động đến như đứt từng đoạn ruột ra hết vậy (Đoạn Tận 斷盡 là Đứt hết.
Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường : là "Đứt hết ruột gan của Thứ Sử Tô
Châu rồi!) Cho nên, sau buổi tiệc, Lý Thân cũng rất điệu nghệ và hào phóng cho
kiệu hoa đưa nàng ca kỹ với "cung dạng trang"(là Trang điểm như là các
cung nhân trong cung vua vậy) về với Thứ Sử Tô Châu Lưu Vũ Tích để cho ông khỏi phải đứt từng đoạn ruột nữa ! Câu thơ cuối của Lưu Vũ Tích lại làm cho ta nhớ đến một câu ca dao rất đa tình dễ thương của cô gái quê Nam bộ :
Đưa tay em bứt cọng ngò,
Thương anh Đứt Ruột, giả đò làm ngơ !
Qua hai câu chuyện trên, ta thấy Lý Thân qủa là một thi nhân hào sảng, hào hoa phóng khoáng, mặc dù có đời sống xa hoa phóng túng. Nhưng chính cái xa hoa phóng túng của ông nên mới lần lượt tặng cả hai nàng ca kỹ tài hoa đẹp đẽ của mình cho hai người bạn thơ một cách thật hào phóng !
Trở lại với "MẪN NÔNG KỲ TAM"...
Thực ra thì bài thơ "MẪN NÔNG thứ ba" nầy trước đây đã có tên là
"KHỔ TÂN NGÂM 苦辛吟" (Khúc Ngâm Cay Đắng) của VU PHẦN 于濆, tự là TỬ Y 子漪,
đậu Tiến sĩ năm Hàm Thông thứ hai đời vua Đường Ý Tông (861), là một thi
nhân cũng ở thời vãn Đường. Nhưng khi khai quật hang động Mạc Cao 莫高窟 (Mạc Cao Quật) ở Đôn Hoàng thì tài liệu trong Đường Triều Tàn Quyển kể lại giai thoại trên, nên bài thơ lại trở thành của Lý Thân. Vấn đề còn đang tranh cải. Nhưng...
Hang động Mạc Cao Đôn Hoàng ở Cam Túc
Bài thơ trên dù là của tác giả nào đi nữa thì cũng nói lên được
cái đời sống cơ cực của nông dân và nỗi lòng của các thi nhân ở buổi Tàn
Đường đã quan tâm và cảm thông với đời sống của quần chúng nông dân
trong xã hội loạn lạc nhiễu nhương của lúc bấy giờ.
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Mời Xem Lại :
Giai Thoại Văn Chương : HAI NHÂN CÁCH MỘT THI NHÂN - ĐỖ CHIÊU ĐỨC
bài rất hấp dẫn
Trả lờiXóa