Mời Xem : Góc Việt Thi : Thơ Xuân Cao Bá Quát (3) - Đỗ Chiêu Đức)
Thơ Xuân Cao Bá Quát (4)
XUÂN NHẬT TUYÊT CÚ THẬP THỦ
(Mười bài thơ Tuyệt Cú Ngày Xuân)
7. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 7) :
春日絕句 其七 XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 7)
城北城南處處家, Thành bắc thành nam xứ xứ gia,
斷蓬枯蔓繚籬斜。 Đoạn bồng khô mạn liễu ly tà.
趁蕃餘樹忙人事, Sấn phồn dư thụ mang nhân sự,
閑日迢催未報衙。 Nhàn nhật thiều thôi vị báo nha.
高伯适 Cao Bá Quát
Chú thích :
- Đoạn Bồng Khô Mạn 斷蓬枯蔓 : là Cỏ bồng gãy, dây leo khô.
- Liễu Ly Tà 繚籬斜 : LIỄU là quấn quanh; LY là Hàng rào; Tà là Nghiêng đổ.
- Sấn Phồn 趁蕃 : Nhân lúc (cây cỏ) rậm rạp.
- Mang 忙 : là Bận rộn. MANG NHÂN SỰ là Bận rộn với chuyện người đời.
- Thiều Thôi 迢催 : là Điều Đệ Thôi Thúc 迢递催促, là Xa xôi Hối Thúc, Ý chỉ : Thời gian vằng vặc nhưng qua cũng rất nhanh.
- Báo Nha 報衙 : là trình báp đến nha môn, cửa quan.
* Nghĩa bài thơ :
Từ thành bắc đến thành nam, nơi nào nhà cửa cũng san sát nhau.
Cỏ bồng dây leo khô gãy quấn quanh bờ giậu xiêu vẹo. Nhân lúc cây cỏ rậm
rạp các cây lớn khác như đang bận rộn với chuyện của người đời (đang ăn
Tết). Những ngày nhàn rỗi thấy như dài nhưng lại qua rất nhanh đến chưa
kịp báo quan hay.
* Diễn Nôm :
Thành bắc thành nam rợp những nhà,
Dây khô cỏ gãy quấn rào ta.
Rậm rạp cây kia như bận rộn,
Ngày dài nhàn rỗi thoáng đà qua !
Lục bát :
Bắc nam thành rợp nóc gia,
Cỏ khô dây quấn rào hoa nghiêng chiều.
Cây kia bận bịu bấy nhiêu,
Ngày nhàn thoáng chốc quên điều báo quan.
8. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 8) :
春日絕句 其八 XUÂN NHẬT TUYẸT CÚ (Kỳ 8)
故園今日草依依, Cố viên kim nhật thảo y y,
春滿池塘夢到稀。 Xuân mãn trì đường mộng đáo hi.
悵望無情珥江水, Trướng vọng vô tình Nhĩ Giang thủy,
悠悠何事向南歸。 Du du hà sự hướng nam quy ?
高伯适 Cao Bá Quát
- Cố Viên 故園 : là Vườn xưa, mà cũng có nghĩa là Quê xưa nữa.
- Y Y 依依 : là Bịn rịn, lưu luyến; Nhưng ở đây Y Y là Hình Dung Từ bổ
nghĩa cho THẢO, nên THẢO Y Y 草依依 là Cỏ mọc dài mơn mởn trong mùa xuân.
- Trì Đường 池塘 : là Ao chuôm, những ao nước nhỏ.
- Trướng Vọng 悵望 : là Trông ngóng một cách bâng khuâng buồn bã.
- Nhĩ Giang 珥江 : tên riêng của sông Hồng.
- Du du 悠悠 : là Dằng dặc xa xôi tiếp nối mãi.
* Nghĩa bài thơ :
Nơi quê cũ hôm nay chắc cỏ đã mọc dài một cách mượt mà mơm mởn;
Mùa xuân chắc cũng đã về trên khắp ao chuôm, mà ta thì vẫn ít mộng thấy
quê nhà. Bồi hồi nhìn dòng sông Nhĩ Giang vẫn tuôn chảy một cách vô
tình, cứ dằng dặc chảy mãi về hướng nam là cớ tại làm sao ?!
Hỏi tức là đã trả lời, vì dòng sông đổ ra biển Nam Hải, không
chảy về nam thì chảy về đâu ? Cũng như lòng của Cao Bá Quát luôn luôn
hướng về vườn cũ của quê nhà để chỉ nhớ đến cỏ xuân mượt mà và các ao
chuôm nước đọng. Nhưng những thứ tầm thường đó là hình ảnh của quê
hương, của nơi chôn nhau cắt rốn mà không ai có thể quên đi được !.
* Diễn Nôm :
Vườn cũ hôm nay cỏ mọc dài,
Ao chuôm xuân đến khó mơ hoài.
Buồn trông sông Nhĩ vô tình chảy,
Dằng dặc về nam như nhớ ai !
Lục bát :
Cỏ non quê cũ xuân xanh,
Ao chuôm xuân sắc khó thành giấc mơ.
Buồn trông sông Nhĩ lững lờ,
Xuôi nam chảy mãi như chờ đợi ai.
9. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 9) :
春日絕句 其九 XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 9)
懶非性耐渾思懶, Lãn phi tính nại hồn tư lãn,
閑是生餘未即閑。 Nhàn thị sanh dư vị tức nhàn.
笑剎年年較晴雨, Tiếu sát niên niên giảo tình vũ,
孤山吟思滿江關。 Cô sơn ngâm tứ mãn giang quan.
高伯适 Cao Bá Quát
* Chú thích :
- Lãn 懶 : là Lười biếng.
- Nại 耐 : là Chịu đựng; TÍNH NẠI là Tánh chịu đựng.
- Hồn 渾 : là Tữ nhiên, là Thường tình.
- Sinh Dư 生餘 : là Sống thừa, chỉ Sống mà không làm nên được gì cả.
- Tiếu Sát 笑剎 : là Nực cười, là Tức cười.
* Nghĩa bài thơ :
Lười biếng không phải là tính chịu đựng của ta, nhưng tự nhiên ta
cũng nghĩ đến chuyện lười; Vì nhàn rỗi một cách vô tích sự, thì vị tất
đã là nhàn rỗi. Nực cười thay chuyện nắng rồi mưa , mưa rồi lại nắng
hằng năm cứ thế. Như ngọn núi đơn độc nhưng khi ngâm vịnh lên thì cũng
đầy rẫy cả núi sông quan ải.
* Diễn Nôm :
Chẳng lười nhưng lại tự nhiên ngông,
Nhàn chẳng đúng thời nhàn tựa không.
Nực cười mưa nắng năm năm vẫn...
Núi côi ngâm vịnh khắp non sông.
Lục bát :
Chẳng lười lại tự nhiên lười,
Nhàn vô tích sự nực cười nắng mưa.
Năm năm mưa nắng giao mùa,
Núi côi ngâm vịnh như đùa non sông.
10. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 10) :
春日絕句 (其十) XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 10)
襭取長春萬里風, Hiệt thủ trường xuân vạn lý phong,
憑高揮洒欲回空。 Bằng cao huy sái dục hồi không.
生憎浪泊一篙水, Sinh tăng Lãng Bạc nhất cao thuỷ,
日日輕帆送醉翁。 Nhật nhật khinh phàm tống tuý ông.
高伯适 Cao Bá Quát
* Chú thích :
- Hiệt Thủ 襭取 : là Lấy vạt áo đùm vật gì đó lại.
- Bằng Cao 憑高 : Dựa vào cái thế trên cao; Từ trên cao.
- Tăng 憎 : là Ghét.
- Khinh Phàm 輕帆 : Một cánh buồm nhẹ.
* Nghĩa bài thơ :
Ta muốn dùng vạt áo nầy để gói cả làn gió xuân của muôn dặm; Rồi
lên cao vung tay áo một cách phóng khoáng để thả gió về lại với tầng
không. Bình sinh ta rất ghét chống thuyền đi trên hồ Lãng Bạc, chỉ muốn
ngày ngày đều có cánh buồm nhẹ đưa lão già say đi về.
Người đời thường bảo là Cao Bá Quát ngông cuồng. Quả không ngoa ! Bọc
hết gió xuân muôn dặm rồi lên cao thả ra theo ý thích của mình. Không
muốn chèo chống chiếc thuyền nan trên hồ, mà chỉ muốn mỗi ngày đều có
cánh buồm nhẹ lướt sóng để đưa người say trở về.
* Diễn Nôm :
- Song thất Lục bát :
Vạt áo gom gió xuân vạn dặm,
Phất tay cao thả gió về không.
Chống thuyền Lãng Bạc chẳng mong,
Ngày ngày buồm nhẹ đưa ông say về !
- Lục bát :
Muốn gom muôn dặm gió xuân,
Lên cao thả gió cho lòng hả hê.
Chống thuyền Lãng Bạc vốn chê,
Chỉ mong buồm nhẹ đưa về ông say.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Mời Xem : Góc Việt Thi : Thơ Xuân Cao Bá Quát (3) - Đỗ Chiêu Đức)
rất hấp dẫn
Trả lờiXóa