THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 105 :
Ấy ai THẢ LÁ DOÀNH CÂU ghẹo người ?
THẢ LÁ DOÀNH CÂU hay THƠ BÀI LÁ ĐỎ, hay HỒNG DIỆP ĐỀ THI, hay LÁ THẮM... Có 3 xuất xứ như sau :
1. Theo THỊ NHI TIỂU DANH LỤC 侍兒小名錄 :
Con gái nuôi của tài nhân nhà Phụng Ân Vương 奉恩王 đời Đường là
Phượng Nhi 鳳兒 thường đề thơ trên lá đỏ, rồi thả trên dòng nước từ cung
vua trôi ra ngoài. Tiến sĩ Giả Toàn Hư 賈全虛 bắt được lá. Quan Kim Ngô tâu
việc ấy lên vua. Nhà vua bèn gả Phượng Nhi cho Giả Toàn Hư và phong cho
chức Kim Ngô.
2. Theo sách VĂN KHÊ HỮU NGHỊ 云溪友議 :
Thư sinh Lư Ốc 盧渥 đi ngang qua ngự câu (dòng nước chảy từ cung vua
ra ngoài), Ngẫu nhiên vớt được một chiếc lá đỏ trên đó có đề một bài
thơ. Ốc nâng niu và cất vào trong tráp. Khi vua Đường thải cung nữ cho
đi lấy chồng. Lư Ốc lấy được một cô, lại đúng là người thả chiếc lá kia.
Lúc trông thấy chiếc lá đỏ trong trao, người vợ nói :” Khi ấy thiếp chỉ
ngẫu nhiên đề thơ, không ngờ chàng lại chính là người đã bắt được !”.
3. Theo THANH TỎA CAO NGHỊ 青瑣高議 :
Cung nhân Hàn Thị 韓氏 đề một bài thơ trên lá đỏ, thả trên dòng nước
từ cung vua trôi ra ngoài. Thư sinh Vu Hựu 于佑 nhặt được đem cất đi. Hựu
lại viết hai câu thơ, rồi đợi nước lớn thả ngược vào trong cung. Hàn
Thị bắt được lá cũng cất vào trong rương. Sau vua Đường cho thải ba ngàn
cung nhân, Hàn Thị được thải ra và rất tình cờ lấy được Vu Hựu làm
chồng. Khi phát hiện ra lá đỏ của nhau, vợ cùng cùng cảm kích mà nói
:”Chúng ta phải tạ ơn cho hai người mai mối, chính là hai cái lá đỏ nầy
đây“.
Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Bích Câu Kỳ Ngộ, tả khi Trần công tử Tú Uyên đi hội chùa, lúc "Sinh vừa tựa liễu nương cây, Lá hồng đâu đã thổi bay lại gần" và :
Mắt coi mới tỏ dần dần,
Mấy dòng chữ viết ba vần bốn câu.
Trông qua lặng ngắt giờ lâu,
Ấy ai THẢ LÁ DOÀNH CÂU ghẹo người ?
THẠCH SÙNG 石崇 (249-300)
là văn học gia đời Tây Tấn, tự là Quý Luân 季倫, người xứ Bột Hải, Nam Bì
(tỉnh Hà Bắc hiện nay). Đầu những năm Nguyên Khang nhậm chức Nam Trung
Lang Tướng, rồi Kinh Châu Ngự Sử. Ở Kinh Châu ông đã tổ chức đánh cướp
tài sản của các thương khách đường xa mà trở nên giàu có. Sau khi giàu
có đã sống đời sống thật xa hoa, đã từng cùng Vương Khải 王愷, là cậu của
Tấn Vũ Đế tranh giàu, xem ai là người giàu sang hơn, khiến Vương Khải
cũng phải chào thua. Sau bị quyền thần là Tôn Tú dựa vào thế lực của
Triệu Vương là Tư Mã Luân muốn cướp đi người ái thiếp của Thạch Sùng là
Lục Châu. Lục Châu đã nhảy lầu tự tử. Tất cả 15 người gồm có mẹ, anh
trai, vợ con thê thiếp đều bị xử tử ở đông thị. Tương truyền trong đêm
cả nhà bị hại, tất cả những cơm gạo rơi vãi xuống đất ở
trong nhà, sau một đêm đều biến thành các con ốc ruộng. Còn theo Việt
Nam ta thì sau khi chết, vì tiếc của nên Thạch Sùng biến thành con Thằn
Lằn (người bắc gọi là con Thạch Sùng) nên thỉnh thoảng Thằn Lằn hay chắt
lưỡi vì tiếc cho của cải đã mất.
Thạch Sùng mất lúc 52
tuổi, tác phẩm để lại gồm có : Tư Quy Thán 思歸嘆, Tự Lý Biểu 自理表, Sở Phi
Thán Tự 楚妃嘆序, Tì Bà Dẫn Tự 琵琶引序, Kim Cốc Thi Tự 金谷詩序... gồm bảy tác
phẩm, trong đó "Kim Cốc Thi Tự 金谷詩序" rất được Thi Tiên Lý Bạch tán
thưởng và nhắc tới trong bài "Xuân Dạ Yến Đào Lý Viên Tự 春夜宴桃李園序".
Trong bài "Hàn Nho Phong Vị Phú" của Nguyễn Công Trứ có câu :
Giàu ai bằng Vương Khải THẠCH SÙNG,
cũng có lúc tường xiêu ngói đổ !
Trong truyện thơ Nôm "Truyện Chúa Chổm" cũng có câu :
THẠCH SÙNG chắc lưỡi lắc đầu,
Nhân sinh rất mực hòa giàu hòa sang.
THÁI CÔNG 太公 tức KHƯƠNG THƯỢNG 姜尚 (1128-1015 trước Công Nguyên).
tự là Tử Nha 子牙, LÃ Thị 吕氏, còn có tên là VỌNG 望, nên được tôn xưng là
THÁI CÔNG VỌNG 太公望, hay LÃ VỌNG 吕望. Người đời tôn xưng là KHƯƠNG THÁI
CÔNG 姜太公”. Ông người Hải Khúc Thành, thuộc huyện Nhật Chiếu, tỉnh Sơn
Đông hiện nay. Theo truyền thuyết, tổ tiên là một trong Tứ Nhạc đời vua
Thuấn, đã từng giúp vua Đại Vũ trị thuỷ có công, được phong tại đất Lữ
(Lã). KHƯƠNG là họ của bộ tộc.
Khương Tử Nha lớn lên trong gia tộc đã suy vi, gia cảnh khốn khó, đã từng làm qua các nghề đồ tể mổ
trâu bán thịt, mở tiệm bán rượu... để kiếm tiền mua gạo, nhưng dù sống
trong nghèo khổ thiếu thốn, ông vẫn luôn cố gắng dùi mài kinh sử, nghiên
cứu thiên văn địa lý, binh thư đồ trận. Cuối cùng ông cũng trở thành
nhà mưu lược, nhà chính trị và là nhà quân sự kiệt xuất của nhà Tây Chu.
Trong "Lâm Tuyền Khách Phú" có câu :
Ôm lược thao hằng khao khát THÁI CÔNG,
thăm lệnh tới Bàn Khê gieo cần trúc.
Còn trong truyện Phương Hoa - Lưu Nữ Tướng thì có câu :
Đời xưa Y, LÃ, Vị Sằn,
Công ra trí chúa, trạch dân ai bằng.
Tương truyền khi Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài Hàn
Vương Tôn Phú bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời nhà Hán. Trong đó
có câu :
Bước phong trần còn áo LÃ, cơm Hề; xem sao dũng kiêm nhân,
lời nhơ nhuốc sá chấp chi con trẻ.
Đặng Trần Thường Thái Công Vọng
THÁI CHÂN 太真 là đạo hiệu của Dương Ngọc Hoàn 楊玉環 (719-756), tức
DƯƠNG QÚY PHI 楊貴妃, là một trong bốn người đẹp cổ đại (Tứ Đại Mỹ Nhân
四大美人) của Trung Hoa xưa. Bà người đất Vĩnh Lạc thuộc Bồ Châu (tỉnh Sơn
Tây ngày nay), là con gái của Tề Quốc Công Dương Huyền Diễm, em họ của
Tể Tướng Dương Quốc Trung.
Dương Qúy Phi tánh cách dịu
dàng, phong tư diễm lệ, giỏi âm luật và ca múa. Lúc đầu gả cho Thọ Vương
Lý Xương, là con dâu của Đương Huyền Tông. Năm Khai Nguyên thứ 28
(740), phụng mệnh vua xuất gia làm đạo cô, lấy hiệu là Thái Chân. Sau đó
nhà vua lại hạ lệnh cho Thái Chân hoàn tục và rước vào cung, chính thức
phong làm Qúy Phi và rất được Đường Huyền Tông yêu dấu.
Năm Thiên Bảo thứ 15 (756), An Lộc Sơn khởi binh làm loạn đánh vào kinh
thành. Đường Huyền Tông Lý Long Cơ dắt Dương Qúy Phi chạy vào đất Thục.
Chạy đến Mã Ngôi Pha, các tướng sĩ đều cho mầm loạn là do Dương Qúy Phi
mà ra nên bắt vua phải xử chết. Vua phải nghe theo.
Trong bài phú Nôm "Cung Trung Bảo Huấn", đề cao lễ giáo trong cung của Bùi Vịnh, một văn thần đời nhà Mạc, có câu :
Li-sơn cười một phút. Bao-Tự kia lầm hết chư hầu.
Vị Thủy tắm đòi phen, DƯƠNG PHI nọ độc hòa thiên hạ.
Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Truyện Tây Sương" thì có câu :
Dễ Ngọc Nữ, dễ Tiên Phi,
Chẳng thì Tây Tử, chẳng thì THÁI CHÂN.
Còn THÁI NỮ 采女 tức là GIANG THÁI TẦN 江采蘋 là phi tần được Đường Minh
Hoàng rất yêu trước khi có Dương Qúy Phi. Bà người đất Bồ Điền thuộc
tỉnh Phúc Kiến hiện nay. Vì yêu thích hoa mai nên được Đường Minh Hoàng
phong là MAI PHI 梅妃; tư chất thông minh, 9 tuổi đã thuộc Kinh Thi, cầm
kỳ thi họa đều giỏi, lại tinh thông âm luật, giỏi thổi bạch ngọc tiêu,
lại biết ca múa, là tiêu biểu của một giai nhân tài hoa.
Trong truyện thơ Nôm Phương Hoa - Lưu Nữ Tường có câu :
Giá xưa nay chửa thấy ai,
Nào người THÁI NỮ, nào người Ban Cơ.
THÁI VĂN CƠ 蔡文姬, tên Diễm 琰, tự là Văn Cơ (có sách cho là Chiêu Cơ
昭姬) Người quận Trần Lưu, là nữ văn học gia đời Đông Hán, con của nhà
văn học Thái Ung, học rộng nhiều tài, giỏi về văn học, thư pháp, âm
nhạc, giỏi về đàn cầm, là một tài nữ đương thời. Có chồng là Vệ Trọng
Đạo, chồng chết về nhà cha mẹ. Đời Đông Hán, Trung nguyên đại loạn, bộ tộc Hung Nô thừa cơ làm phản. Thái Văn Cơ bị Hung Nô bắt đi, sanh được hai con ở Hung Nô. Sau khi Tào Tháo thống nhất phương bắc, mới chuộc Thái Văn Cơ về gả cho Đổng Kỵ.
Trong tác phẩm Sãi Vãi, cụ Nguyễn Cư Trinh đã cho bà Vãi luận về các nữ lưu tài giỏi như sau :
Gái như Tạ Đạo Uẩn, gái mà hay vịnh tuyết thành thơ,
Gái như THÁI VĂN CƠ, gái mà biết phân cầm nên khúc...
THÁI THẠCH 采石, tức là Thái Thạch Cơ 采石磯, bờ đá bên dòng Thái
Thạch. Tương truyền Thi Tiên Lý Bạch uống rượu say rồi nhảy xuống lòng
sông nầy ôm trăng mà chết, nên có rất nhiều danh thắng để tưởng nhớ đến
Thi Tiên, như Lý Bạch Mộ 李白墓, Trích Tiên Lâu 謫仙樓, Tróc Nguyệt Đình
捉月亭... Tất cả những văn nhân thi sĩ, sứ thần nước ngoài khi đi sứ ngang
qua đây đều có làm thơ tưởng nhớ đến Lý Bạch. Cụ Nguyễn Trãi nhà ta
trong thời gian ở Trung Hoa cũng có bài thơ Thái Thạch Hoài Cổ 采石懷古 để
tưởng nhớ đến Thi Tiên :
采石曾聞李謫仙, Thái Thạch tằng văn Lý Trích Tiên,
騎鯨飛去已多年。 Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên.
此江若變為春酒, Thử giang nhược biến vi xuân tửu,
只恐波心尚醉眠。 Chỉ khủng ba tâm thượng túy miên.
Có nghĩa :
Thái Thạch từng nghe Lý Bạch say,
Cởi kình bay biết mấy năm nay.
Sông này nếu biến thành xuân tửu,
Lòng sóng e rằng vẫn ngủ say !
Lục bát :
Từng nghe Thái Thạch Trích Tiên,
Cởi kình bay mất bao niên trước rồi.
Nước sông biến rượu xuân trôi,
Chỉnh e lòng sóng say vùi ngủ yên !
Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Bích Câu Kỳ Ngộ cũng có câu :
Ấy ai rơi mũ bên non,
Bóng trăng THÁI THẠCH là hồn ai say.
Ta lại có từ THÁI SƠN 泰山 là núi Thái Sơn; còn HỒNG MAO 鴻毛 là Lông
của con chim Hồng. MAO 毛 là loại lông rất nhẹ, là lông tơ, lông măng.
Theo "Báo nhiệm An Thư 報任安書" trong Sử Ký của Tư Mã Thiên 司馬遷的史記 đời Hán
có câu " 人固有一死,或重于泰山,或轻于鸿毛 Nhân cố hữu nhất tử, hoặc trọng vu thái sơn,
hoặc khinh vu hồng mao". Có nghĩa : Là người cố nhiên phải chết, nhưng
có những cái chết nặng như núi Thái Sơn, có những cái chết nhẹ tợ Lông
Hồng". Nên thường dùng từ HỒNG MAO để chỉ vật gì rất nhẹ hoặc bị xem
nhẹ.. Như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc chỉ những chàng chinh phu đi chinh
chiến xem nhẹ cái chết với câu :
Chí làm trai dặm ngàn da ngựa,
Gieo THÁI SƠN nhẹ tựa HỒNG MAO.
THAM SANG HẠI VỢ là Tham lam giàu sang quyền lực là giết hại vợ nhà. Theo tích sau đây :
Thời Đông Châu Liệt Quốc, có tướng nước Vệ là Ngô Khởi 吳起 làm quan
ở nước Lỗ. Nước Tề dấy binh đánh Lỗ. Ngô Khởi được tiến cử làm tướng
lãnh binh chống Tề. Nhưng vua Lỗ còn nghi ngại vì vợ của Ngô Khởi là
người nước Tề, nên nghi ngờ Ngô Khởi không hết lòng giúp mình, nên còn
chần chừ chưa giao binh phù tướng ấn. Ngô Khởi biết ý bèn về nhà giết vợ
xách đầu đến dâng cho vua Lỗ. Ngô Khởi bèn được vua Lỗ trọng dụng và
tin dùng.
Tích nầy thường dùng để chỉ những người ham
mê công danh bất chấp thủ đoạn, vô tình vô nghĩa, làm cả những việc
thương thiên hại lý. Trong tác phẩm Sãi Vãi của cụ Nguyễn Cư Trinh khi
cho ông Sãi luận về chữ "Ghét" có các câu như sau :
Ghét hoài ghét hủy; ghét ngọt ghét ngon
Ghét đứa cầu mị mà giết con,
Ghét đứa THAM SANH mà HẠI VỢ.
THANG MỘC 湯沐 : THANG 湯 là Canh, là Nước nóng. MỘC 沐 là Tắm rửa.
Theo tục lệ từ đời nhà Chu, Thiên tử đem một khu đất ở gần kinh đô phong
cho các vua Chư hầu, gọi là THANG MỘC ẤP 湯沐邑. Mỗi lần vào chầu thiên tử
thì các vua chư hầu đến Thang Mộc Ấp mà nghỉ ngơi, tắm gội, trai giới
cho sạch sẽ để vào chầu vua. Từ đời Hán trở đi THANG MỘC ẤP là từ dùng
để chỉ các Thái Ấp mà vua phong cho các công thần, vương hầu. Ở Việt Nam
ta ngày xưa, Thanh Hoá là đất Thang Mộc của triều Lê và triều Nguyễn
sau nầy.
Trong Thiên Nam Ngữ Lục soạn vào đời Chúa Trịnh Căn có câu :
Nó cùng Đường Nguyễn bấy chừ,
Lấy làm THANG MỘC, súc trừ binh lương.
Còn THANG, VĂN là chỉ hai ông vua tốt của đời xưa là THÀNH THANH 成湯
của đời nhà Thương và CHÂU VĂN VƯƠNG 周文王 của nhà Chu được coi là hai
ông vua hiền tài mẫu mực của Trung Hoa xưa, như trong bài hát nói KẺ SĨ
của cụ Nguyễn Công Trứ :
Xe bồ luân dù chưa gặp THANG VĂN,
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
Thành Thang Châu Văn Vương
Hẹn bài viết tới :
THANH, THÀNH, THÂN, THẦN.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 104 : TỰA, TƯỚC, TƯƠNG, TƯỜNG, TỬU.- Đỗ Chiêu Đức
2./
Giai Thoại Văn Chương : BÀI THƠ ĐỂ ĐỜI CHỈ CÓ HAI CÂU - Đỗ Chiêu Đức
3./
bài rất hay
Trả lờiXóa