Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2019

Góc Việt Thi : Thơ NGUYỄN TRÃI


D. THƠ LÀM TRONG THỜI Ở ẨN TẠI CÔN SƠN.
1. BÀI THƠ " VÃN HỨNG " :

           Inline image

      晚興                            VÃN HỨNG 
               阮豸                                      Nguyễn Trãi 
窮巷幽居苦寂寥         Cùng hạng u cư khổ tịch liêu,  
烏巾竹杖晚逍遙         Ô cân trúc trượng vãn tiêu diêu.
荒村日落霞棲樹         Hoang thôn nhật lạc, hà thê thụ,
野徑人稀水沒橋         Dã kính nhân hi, thủy một kiều. 
今古無窮江漠漠         Kim cổ vô cùng giang mạc mạc, 
英雄有恨葉蕭蕭         Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu.
歸來獨凭欄杆坐         Quy lai độc bẵng lan can tọa,
一片冰蟾掛碧霄         Nhất phiến băng thiềm quải bích tiêu.

* CHÚ THÍCH :
    - CÙNG HẠN 窮巷 : Hạng là Con hẽm; nên CÙNG HẠN là ở cuối con hẽm, cũng có nghĩa là : Ở nơi hang cùng ngõ hẹp.
    - Ô CÂN TRÚC TRƯỢNG 烏巾竹杖 : là Khăn đen gậy trúc, chỉ sự phục sức của dân dã miền núi non.
    - HÀ THÊ THỌ 霞棲樹 : là Ráng chiều đậu trên cây, Ý nói những ánh nắng chiều tàn còn rơi rớt lại trên cành lá.
    - THỦY MỘt KIỀU 水沒橋 : là Nước ngập cầu. Nước lớn dâng lên làm ngập cả những cây cầu bắt ngang qua mương rạch.
    - GIANG MẠC MẠC 江漠漠: Nước sông lửng lờ trôi.
    - DIỆP TIÊU TIÊU 葉蕭蕭 : Cây lá xạc xào vì gió lay động.
    - NHẤT PHIẾN BĂNG THIỀM 一片冰蟾 : Một mảnh thiềm thừ băng giá, Ý nói một vầng trăng lạnh lẽo. Theo thần thoại Trung Hoa trong cung trăng có con Thiềm Thừ (Con Cóc) ba chân, nên cung trăng còn gọi là Thiềm Cung 蟾宫.
    - QUẢI BÍCH TIÊU 掛碧霄 : là Treo trên bầu trời xanh biếc.
         
* DỊCH NGHĨA :

                              NIỀM CẢM KHÁI HỨNG KHỞI LÚC BAN CHIỀU
           Ở chỗ thanh u trong hang cùng ngõ hẹp nầy chỉ khổ một nỗi là quá tiêu điều vắng lặng, nên mỗi chiều ta đều chống gậy trúc, bịt khăn đen rất tiêu dao mà ngắm cảnh chiều tà. Cảnh thôn trang hoang vắng khi mặt trời chen lặn với ráng chiều như còn lưu luyến trên các ngọn cây, và trên đường mòn vắng vẻ người qua lại nầy, dòng nước như cuộn chảy ngập cả những cây cầu bắt ngang. Chuyện cổ kim xưa nay không dứt như dòng sông lờ lững chảy hoài, còn mối hận của kẻ anh hùng thì cũng xạc xào mãi như những chiếc lá lay động trong gió chiều. Ta trở về một mình ngồi tựa lan can mà cảm khái trong bầu trời xanh biếc với mảnh trăng treo lạnh lẽo ở tầng không.

* DIỄN NÔM :
                           VÃN HỨNG 
              Inline image

              Ngõ hẹp hang cùng sống quạnh hiu,
              Khăn đen gậy trúc vẻ tiêu diêu.
              Ráng chiều thôn vắng mây vương ngọn,
              Cầu ngập người thưa nước cuốn nhiều.
              Kim cổ vô cùng sông cuộn cuộn,
              Anh hùng ôm hận lá liu xiu.
              Trở về ngồi tựa lan can ngắm,
              Một mảnh trăng treo lạnh cả chiều !
  Lục bát :
              Ẩn cư tận chốn hang cùng,
              Khăn đen gậy trúc vui cùng quạnh hiu.
              Ráng chiều thôn vắng tiêu điều,
              Nước lên cầu ngập đường chiều lơ thơ.
              Cổ kim như nước lửng lờ,
              Anh hùng ôm hận hững hờ lá rơi.
              Tựa lan can, một mình ngồi,
              Ngắm vầng trăng lạnh bên trời xanh lơ !
              
                                                       Đỗ Chiêu Đức.

2. Bài thơ TIÊN DU TỰ :
   仙遊寺                Tiên Du tự
            阮廌                       Nguyễn Trãi
短棹繫斜陽,     Đoản trạo hệ tà dương 
匆匆謁上方。     Thông thông yết thượng phương. 
雲歸禪榻冷,     Vân quy Thiền sáp lãnh, 
花落澗流香。     Hoa lạc giản lưu hương. 
日暮猿聲急,     Nhật mộ viên thanh cấp
山空竹影長。     Sơn không trúc ảnh trường 
箇中真有意,     Cá trung chân hữu ý, 
欲語忽還忘。     Dục ngữ hốt hoàn vương (vong).
  * Chú Thích :
    - HỆ 繫 : Chữ HỆ nầy có bộ MỊCH 糸 là Sợi Tơ bên dưới, nên có nghĩa là Trói, là Buộc, là Cột. Ở đây có nghĩa là GÂY (GÂY CHÈO : là dùng một sợi dây cuộn tròn như hình số 8 rồi dùng chèo gá vào xoay một hoặc hai vòng cho cột chèo và cây chèo ăn vào với nhau để chèo ).
    - THÔNG THÔNG 匆匆 : Vội vàng, Tất bật.
    - YẾT 謁 : là Yết Kiến 謁見, thường dùng để chỉ người nhỏ ra mắt người lớn, người thường ra mắt người có chức có quyền...
    - SÁP 榻 : Cái Sạp. Thiền Sáp 禪榻 là Cái Sạp để ngồi Thiền. 
    - GIẢN 澗 : là Dòng nước chảy len lỏi giữa núi đá, nhỏ hơn suối.
    - VONG 忘 : Chữ VONG nầy có bộ TÂM 心 ở dưới, nên có nghĩa là Quên; Vì muốn cho ăn Vận nên phải đọc trại thành VƯƠNG.

* Dịch nghĩa:
             Chùa Tiên Du
Mái chèo ngắn vội gây (buộc) trong ánh nắng chiều tà. 
Vội vàng lên chùa để yết kiến đức Phật ( Thượng Phương ).
Mây kéo về làm lạnh giường Thiền nơi tu tập .
Hoa rụng xuống khiến hương hoa theo dòng suối trôi đi. 
Chiều hôm buông  xuống nên tiếng vượn kêu rộn rả.
Núi trống không nên bóng trúc như dài thêm ra .
Trong cảnh trí thật là hữu tình hữu ý  đó …
Ta muốn nói nên điều gì đó, nhưng bỗng dưng lại quên mất lời. 

      Bài thơ tả cảnh chiều xuống thật nhẹ nhàng trên bến chùa Tiên Du. Hoa rụng nước trôi vượn kêu núi vắng, khiến người trong cuộc cảm xúc dạt dào, muốn nói nhưng quên mất lời, không biết phải nói làm sao mới diễn đạt được hết lòng cảm xúc của mình. Qủa là một ý thiền rất là ... thiền ! Không nói được nhưng dường như đã ... nói rất nghiều !

 Diễn Nôm :
                        CHÙA TIÊN DU
     

                 Chèo ngắn buộc tà vương,
                 Tất bật lễ Thượng phương.
                 Mây về giường thiền lạnh,
                 Hoa rụng suối đưa hương.
                 Trời chiều tiếng vượn gấp,
                 Núi vắng lá tre vươn,
                 Cảnh trí muôn vàn ý,
                 Muốn nói, bỗng...quên luôn !
   Lục bát :
                 Mái chèo gây vội nắng tà, 
                 Tất bật lễ bái hương hoa Phật tiền.
                 Mây về nghe lạnh sạp thiền,
                 Hoa rơi hương cuốn theo miền nước trôi.
                 Trời chiều vượn hú liên hồi,
                 Núi không bóng trúc vươn dài thênh thênh.
                 Ý do cảnh trí mà nên …
                 Dường như muốn nói bỗng liền quên ngay !
                                                                              
                                                                Đỗ Chiêu Đức

3. Bài thơ MỘ XUÂN TỨC SỰ :

   暮春即事             Mộ Xuân Tức Sự
閑中盡日閉書齋,   Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
門外全無俗客來。   Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
杜宇聲中春向老,   Đỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão,
一庭疏雨楝花開。   Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.

Inline image

* Chú Thích :
    - MỘ 暮 : Chự MỘ nầy có bộ NHẬT 日 là Mặt trời bên dưới, nên có nghĩa là Buổi Chiều. MỘ XUÂN 暮春 là Xuân đã về chiều, nên có nghĩa là CUỐI MÙA XUÂN. Khác với XUÂN MỘ 春暮 là CHIỀU XUÂN.
    - TẬN 盡 : là Cuối cùng, nhưng TẬN NHẬT 盡日 Không phải là Cuối Ngày, mà có nghĩa là SUỐT NGÀY.
    - TỤC KHÁCH 俗客 : là Khách phàm tục; Ý chỉ những khách khứa tầm thường, không phải là hạng Nho gia hay kẻ sĩ có học.
    - Đỗ VŨ 杜宇 : Chỉ Chim Đỗ Quyên, là con Chim Cuốc, con Quấc. ĐỖ VŨ là tên của vua nước Thục, xưng là Vọng Đế, khi chết hoá thành chim Đỗ Quyên là con chim Cuốc. Nên Đỗ Vũ, Đỗ Quyên, Thục Đế, Vọng Đế đều cùng chỉ một người, một loại chim : Chim Quấc (Quốc).
    - SƠ VŨ 疏雨 : Mưa lưa thưa, mưa lâm thâm, mưa phùng.

* Nghĩa Bài Thơ :
                        TỨC CẢNH CUỐI XUÂN
        Trong thời gian nhàn nhã nên suốt ngày cứ khép kín cửa thư trai để đọc sách. Ngoài cửa không có khách phàm tục nào đến để quấy rầy cả. Trong tiếng kêu của con chim quấc nên biết rằng mùa xuân đã già, xuân đã sắp tàn rồi. Trong làn mưa rơi lất phất hoa soan rụng đầy cả sân trong nhà (báo hiệu cho mùa hè đã sắp đến).

* Diễn Nôm :
                     CUỐI XUÂN TỨC CẢNH

                Suốt ngày nhàn tản khép thư trai,
                Ngoài cửa khách thường chẳng vãng lai.
                Trong tiếng cuốc kêu xuân sắp hết,
                Đầy sân lất phất sắc soan tươi !
    Lục bát :
                Suốt ngày nhàn khép thư phòng,
                Tịnh không tục khách thong dong tháng ngày.
                Cuốc kêu xuân sắp tàn phai,
                Đầy thềm soan nở bay bay mưa phùn !

                                                             Đỗ Chiêu Đức

4. Bài thơ GIANG HÀNH :

  Inline image

   江行               GIANG HÀNH
西津初艤棹,   Tây tân sơ nghĩ trạo,
風景便江湖。   Phong cảnh tiện giang hồ.
雨過山容瘦,   Vũ qúa sơn dung sấu,
天長鴈影孤。   Thiên Trường nhạn ảnh cô.
滄浪何處是?   Thương Lang hà xứ thị ?
漁釣好為徒。   Ngư điếu hảo vi đồ.
回首東華地,   Hồi thủ Đông Hoa địa,
塵埃覺已無。   Trần ai giác dĩ vô.

* Chú Thích :
    - NGHĨ 艤 : Thuyền ghé vào bờ, nên NGHĨ TRẠO 艤棹 : là Gác mái chèo lên để đậu thuyền lại.
    - SẤU 瘦 : là Ốm, là Gầy. Trong bài thơ chỉ dáng vẻ thanh thoát trong sáng của núi rừng sau cơn mưa.
    - THƯƠNG LANG 滄浪 : Phần hạ lưu sông Hán Thủy (Trung Quốc). Hai câu thơ 5 và 6 đề cập khúc sông này và những ngư phủ sống ở đây khiến ta nhớ lại bài ca Ngư Phủ 漁父 của Khuất Nguyên 屈原 trong Sở Từ 楚辭. Cuối bài có hai câu: "Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngô anh, Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngô túc 滄浪之水清兮,可以濯吾纓。滄浪之水濁兮,可以濯吾足. Có nghĩa : Dòng nước Thương Lang trong ư ? Ta có thể giặt giải mũ, Dòng nước Thương Lang đục ư ? Ta có thể rửa chân. Ý nói : Phải biết tùy hoàn cảnh mà sống, chớ không nên làm ra vẻ thanh cao hơn thiên hạ.
    - ĐÔNG HOA 東華 : là nơi có cửa Đông Hoa Môn của hoàng cung, lối đi dành riêng cho các quan chức được đòi vào chầu vua. Đây ý chỉ nơi phồn hoa đô hội.

* nghĩa Bài Thơ :
                      ĐI THUYỂN TRÊN SÔNG
        Bến bờ tây vừa gác mái chèo đậu lại, thì phong cảnh sông nước giang hồ đã hiện ra trước mắt. Sau cơn mưa dung nhan (cảnh trí) của núi như ốm (thanh thoát) hơn ra. Bầu trời cao rộng nên bóng của con chim nhạn như càng cô đơn hơn. Sông Thương Lang ở nơi đâu để ta có thể làm ông câu ở nơi đó. Quay nhìn về chốn phồn hoa đô hội, ta cảm thấy như mình đã rũ sạch bụi trần ai !
        Thật cảm khái cho cảnh nhàn cư ẩn dật, muốn sống đời sống nhàn nhã thanh cao, nhưng lòng vẫn... còn chút quyến luyến với đời sống nơi phồn hoa đô hội. Nói là như ... rũ sạch bụi trần ai, nhưng thật ra là lòng còn luyến nhớ !

* Diễn Nôm :
              ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG

       Inline image

              Bờ tây vừa gát mái,
              Cảnh sông nước phơi bày.
              Sau mưa núi thanh thoát,
              Trời rộng nhạn lẻ bay.
              Thương Lang nơi đâu nhỉ ?
              Ngư phủ ước được rày.
              Quay đầu về đô hội,
              Như rũ sạch trần ai !
   Lục bát :
              Bờ tây vừa gát mái chèo,
              Giang hồ sông nước như theo với người.
              Sau mưa cảnh núi xinh tươi,
              Nhạn như cô lẻ bầu trời thênh thênh.
              Thương Lang sông nước gập ghềnh,
              Ngư ông an phận lênh đênh theo giòng.
              Quay đầu nhìn đất Hoa Đông,
              Trần ai nhân thế thong dong qua rồi !

                                                        Đỗ Chiêu Đức

5. Bài thơ TRẠI ĐẦU XUÂN ĐỘ :

  Inline image


  寨頭春渡                 TRẠI ĐẦU XUÂN ĐỘ

渡頭春草綠如煙,   Độ đầu xuân thảo lục như yên,
春雨添來水拍天。   Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên.
野徑荒涼行客少,   Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
孤舟鎮日擱沙眠。   Cô chu trấn nhật các sa miên.

* Chú Thích :
    - ĐỘ 渡 : Độ nầy có 3 chấm thủy 氵bên trái, nên có nghĩa là đi ngang qua nước (sông, hồ, ao, biển). Danh từ ĐỘ ĐẦU 渡頭 : là Nơi để đi ngang qua sông, ta gọi là BẾN ĐÒ. XUÂN ĐỘ 春渡 là Bến đò xuân.
    - THỦY PHÁCH THIÊN 水拍天: là Nước vổ trời. Trong cảnh sông nước bao la, ta thấy những đợt sóng lăn tăn như vổ vào tận chân trời.
    - DÃ KÍNH 野徑 : Con đường đi ngoài ngoại ô, là Đường đồng trống vắng.
    - TRẤN NHẬT 鎮日 : là Suốt ngày, Cả ngày.
    - CÁC 擱 : Có bộ THỦ 扌là Tay bên trái, nên có nghĩa là Đặt, Để, Kê, Gác. Trong bài thơ có nghĩa : Chiếc đò nằm gác lên trên bãi cát vì không có khách sang sông.

* Nghĩa Bài Thơ :
                               BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
        Cỏ xuân trên bến đò xanh biếc như sương khói, cộng thêm với mưa xuân phơi phới nên những sóng nước lăn tăn như vổ tận chân trời. Con đường hoang vắng ở ngoại ô ít khách vãng lai, nên con đò đơn lẻ suốt ngày nằm gác lên trên cát mà ngủ.
        Cảnh bến đò vắng khách trên bến sông xuân vắng lặng, đẹp một cách nên thơ đầy thi vị của cuộc sống êm ả ở thôn quê, càng trở nên yên ắng hơn với con đò như nằm ngủ yên trên bãi cát vì không có khách sang sông ! 

* Diễn Nôm :
                 BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI

            Inline image


              Trên bến đò xuân sắc cỏ tươi,
              Mưa xuân phơi phới nước ngang trời.
              Khách xuân thưa thớt đường xuân vắng,
              Đò nhỏ nằm trơ cát ngủ vùi !
    Lục bát :
              Cỏ xanh như khói bến xuân,
              Thêm mưa xuân vổ sóng lưng ngang trời.
              Đường xuân thưa thớt vắng người,
              Đò xuân trơ cát ngủ vùi sáng trưa !

                                                          Đỗ Chiêu Đức
       

1 nhận xét:

Tạp Ghi và Phiếm Luận : CHÉN trong TRUYỆN KIỀU (Đỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận  :                      CHÉN trong TRUYỆN KIỀU                                                                      ...