Thứ Tư, 3 tháng 7, 2019

Góc Việt Thi : Thơ NGUYỄN TRÃI (Thơ Tỏ Ý Chán Nản...)

 * NHỮNG BÀI THƠ LÀM KHI CÔNG THÀNH DANH TOẠI.

  THƠ TỎ Ý CHÁN NẢN MUỐN VỀ NGHỈ HƯU.


1. Bài thơ  NGẪU THÀNH :

  Inline image


    偶成                   NGẪU THÀNH
世上黃梁一夢餘,   Thế thượng Hoàng lương nhất mộng dư,
覺來萬事總成虛。   Giác lai vạn sự tổng thành hư.
如今只愛山中住,   Như kim chỉ ái sơn trung trú,
結屋花邊讀舊書。   Kết ốc hoa biên độc cựu thư.

* Chú Thích :
    - NGẪU THÀNH 偶成 : Ngẫu nhiên mà làm thành bài thơ. Ý muốn nói bài thơ là nỗi lòng của tác giả được hình thành một cách tự nhiên ngẫu hợp với tâm trạng của mình. Lòng đã muốn như thế nên mới hình thành lời thơ như thế. Nói là ngẫu nhiên làm thành chứ thực ra là do từ trong lòng mà làm ra đó vậy.
    - HOÀNG LƯƠNG NHẤT MỘNG 黃梁一夢 : Ta gọi là Một Giấc Kê Vàng, để chỉ những gì hư ảo như một giấc mộng, không thể thực hiện được, và thường dùng để chỉ vinh hoa phú qúy như một giấc mộng, chỉ ngắn ngủi trong khoảnh khắc, chớp mắt đã không còn gì cả, theo tích sau đây :
      Năm Đường Khai Nguyên thứ 7 (719), có chàng Lư Sinh thi rớt, cởi lừa về quê. Một hôm đi ngang qua đất Hàm Đan, ghé vào một lữ quán, gặp đạo sĩ Lữ Ông, đàm đạo rất tương đắc. Lư than bất đắc chí, Lữ Ông bèn đưa cho chàng chiếc gối bằng sành, sẵn thua buồn chàng bèn gối đầu lên gối mà ngủ, vừa lúc chủ quán vừa bắt nồi kê vàng (hoàng lương) lên nấu. Lư Sinh mộng thấy mình về quê cưới được Thôi Thị va đẹp lại vừa là con nhà giàu, lại thi đậu tiến sĩ, được thăng làm Thiểm Châu Mục, rồi Kinh Triệu Doãn. Cuối cùng vinh thăng Hộ Bộ Thượng Thơ kiêm Ngự Sử Đại Phu, Trung Thư Lệnh và cuối cùng được phong làm Yến Quốc Công. Năm đứa con đều được quan cao lộc cả, con gái thì gả vào nhà quyền qúy, Con cháu đầy nhà, vinh hoa phú qúy đến tột cùng. Đến năm 80 tuổi mới bị bệnh mà mất. Khi vừa đứt hơi, thì cũng chính là lúc Lư Sinh giật mình tỉnh dậy, thấy Lữ đạo sĩ vẫn còn ngồi đó, nồi kê vàng mà chủ quán đang nấu vẫn còn chưa chín. Lư Sinh chợt tỉnh ngộ, mấy mươi năm phú qúy vinh hoa rốt cuộc chỉ là một giấc mộng ngắn ngủi mà thôi !

              Inline image  Inline image
   - GIÁC LAI 覺來 : Tỉnh lại (sau giấc ngủ).
   - HƯ 虛 : là Trống không, không có gì cả !
   - KẾT ỐC 結屋 : Kết một căn nhà (bằng cỏ, bằng lá ...)

* Nghĩa bài Thơ :

        Cuộc sống trên đời nầy giống như là sau một giấc hoàng lương. Sau khi tỉnh lại rồi thì muôn việc đều là con số không. Như hiện nay thì ta chỉ thích ở ẩn trong núi, kết một gian nhà tranh cạnh những khóm hoa mà đọc sách cũ của ngày xưa mà thôi !

* Diễn Nôm :
                              NGẪU THÀNH

                  Cuộc đời vốn tựa giấc hoàng lương,
                  Tỉnh mộng muôn điều tựa khói sương.
                  Về núi thích sao bên hoa dại,
                  Kết tranh đọc sách chẳng buồn thương .
    Lục bát :
                  Người đời như giấc kê vàng,
                  Tỉnh ra muôn việc tan như mây trời.
                  Chi bằng về núi thảnh thơi,
                  Bên hoa kết mái tranh ngồi đọc thư.

                                                     Đỗ Chiêu Đức

2. Bài thơ VÃN LẬP :
    
   Inline image       
    晚立                   VÃN LẬP
長天漠漠水悠悠,   Trường thiên mạc mạc thủy du du,
黃落山河屬暮秋。   Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu.
羨殺花邊雙白鳥,   Hâm sát hoa biên song bạch điểu,
人間累不到滄洲。   Nhân gian lụy bất đáo thương châu !

* Chú Thích :
    - VÃN LẬP 晚立 : VÃN là Buổi chiều gần tối; LẬP là Đứng. Nên VÃN LẬP là Đứng ngắm cảnh chiều tối.
    - HOÀNG LẠC 黃落 : là Vàng rụng, là Lá mùa thu vàng rơi rụng.
    - HÂM SÁT 羨殺 : HÂM là Hâm mộ; SÁT là giết, là chết. Sát ở đây là Phó Từ dùng để chỉ mức độ của Động từ. Nên HÂM SÁT là : Hâm Mộ muốn chết; Ý chỉ Rất là hâm mộ, Hâm mộ vô cùng !
    - NHÂN GIAN LỤY 人間累 : là Cái lụy phiền của nhân gian người đời.
    - THƯƠNG CHÂU 滄洲 : là Cồn bãi, thường ngụ ý dùng để chỉ nơi ở ẩn nhàn hạ.

* Nghĩa Bài Thơ :
                          ĐỨNG NGẮM TRỜI CHIỀU

       Trời rộng thênh thang mơ màng dưới dòng nước chảy lửng lờ. Lá vàng rụng đầy cả núi cả sông trời đã thuộc về cuối mùa thu rồi. Ta vô cùng hâm mộ đôi chim trắng bay lượn bên hoa đang nở rộ. Cái lụy phiền của nhân gian không thể đến được với mảnh đất thương châu nhàn nhã nầy !

* Diễn Nôm :

                    Inline image
                                  VÃN LẬP

                    Trời cao lồng lộng nước mênh mông,
                    Lá rụng chiều thu khắp núi sông.
                    Hâm mộ thay đôi chim trắng lượn,
                    Người đời phiền muộn khó chờ trông.
      Lục bát :
                    Trời cao rộng, nước mênh mông,
                    Lá vàng rụng khắp núi sông thu buồn.
                    Bên hoa chim trắng chập chờn,
                    Nhân gian phiền muộn chẳng còn nơi đây !

                                                                  Đỗ Chiêu Đức

3. Bài thơ ĐỀ SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN ĐỒ
   Inline image

 題山鳥呼人圖         ĐỀ SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN ĐỒ 
深山寂寂鳥呼人,   Thâm sơn tịch tịch điểu hô nhân,
畫裏看來亦逼真。   Họa lý khán lai diệc bức chân.
閒掛午窗朝退日,   Nhàn quải ngọ song triều thoái nhật,
夢回疑是故園春。   Mộng hồi nghi thị cố viên xuân.

* Chú Thích :
    - SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN 山鳥呼人 : là Chim trong núi mời gọi người.
    - BỨC CHÂN 逼真 : Sát với sự thật; (vẽ) Gần như thật.
    - TRIỀU THOÁI 朝退 : là Thoái Triều, lúc tan chầu vua ra về.
    - CỐ VIÊN 故園 : Vườn cũ, chỉ Quê xưa.

* Nghĩa Bài Thơ :
                       ĐỀ BỨC HỌA CHIM NÚI GỌI NGƯỜI
       Trong cảnh núi sâu vắng vẻ nầy tiếng chim như mời gọi người. Bức họa rất sống động xem gần như là cảnh thật vậy. Mỗi ngày khi tan chầu rảnh rổi ta treo nó trước song cửa để nhìn ngắm, mà ngỡ như mơ về vườn xuân nơi quê cũ.

* Diễn Nôm :

                 Inline image

                   ĐỀ SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN ĐỒ

                Núi sâu vắng vẻ tiếng chim mời,  
                Tranh vẽ truyền thần cảnh thảnh thơi.
                Treo ở cửa song tan chầu ngắm,
                Ngỡ như quê cũ lúc xuân thời !
     Lục bát :
                Núi sâu vắng, tiếng chim kêu,
                Bức tranh như thật gợi nhiều ước mơ.
                Tan chầu treo ở song thơ,
                Vườn xuân quê cũ ngẩn ngơ mộng hồn !

                                                         Đỗ Chiêu Đức

4. Bài thơ ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ :

      Inline image
   
  題東山寺                      ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ 
君親一念久嬰懷,   Quân thân nhất niệm cửu anh hoài,
澗愧林慚夙願乖。   Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.
三十餘年塵境夢,   Tam thập dư niên trần cảnh mộng,
數聲啼鳥喚初回。   Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.

* Chú Thích :
    - ĐÔNG SƠN TỰ 東山寺 : Tên một ngôi chùa tại xã Vĩnh Lũ, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương.
    - QUÂN THÂN 君親 : QUÂN là Vua; THÂN là Cha mẹ; chỉ trung với vua và hiếu thảo với cha mẹ.
    - CỬU ANH HOÀI 久嬰懷 : Vấn vít mãi trong lòng.
    - TÀM QÚY 慚愧 : là Thẹn thùa. GIẢN 澗 là Khe nước trong núi; LÂM 林 là Rừng. Nên GIẢN QÚY LÂM TÀM 澗愧林慚 : là Thẹn với suối thẹn với rừng.
    - TÚC NGUYỆN 夙願 : Nguyện vọng ấp ủ từ lâu, là Lời nguyền cũ.
    - QUAI 乖 : là Láu lỉnh, Trái ngược.
    - SỔ 數 : SỔ (dấu hỏi) Động từ có nghĩa là Đếm; Hình Dung từ có nghĩa là Mấy; Danh từ đọc là SỐ (dấu sắc) : là Con số. Trong bài thơ là Hình Dung từ SỔ THANH 數聲là Mấy tiếng (chim kêu).    


* Nghĩa bài Thơ :
                                       ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ
       Cái quan niệm về Quân Thân lâu nay vẫn cứ vấn vít mãi trong lòng. Nên ta mới đành thẹn với suối với rừng mà đi ngược lại cái tâm nguyện lâu nay của mình. Hơn ba mươi năm lăn lóc trong cảnh trần đời thoáng qua như một giấc mộng. Mấy tiếng chim hót gọi dậy trong ta những nguyện ước lúc ban đầu.

      Như cụ Nguyễn Công Trứ đã nói "... Sắp hai chữ QUÂN THÂN mà gánh vác", nên Nguyễn Trải vẫn cứ phải bận lòng mãi với Trung với Hiếu mà đành thẹn với suối với rừng, không thực hiện được tâm nguyện của mình là về sống ấn cư nhàn tản với núi rừng như đã từng ao ước. Ba mươi mấy năm lăn lóc trong trường danh lợi, trong chốn quan trường, chợt nghe tiếng chim hót líu lo mới giật mình mà muốn quay đầu sống với những ước nguyện của buổi ban đầu : Về hưu hưởng nhàn !

* Diễn Nôm :

                 Inline image
                      
                       ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ 
                 Vấn vít quân thân suốt một đời,
                 Thẹn cùng rừng núi lỡ rong chơi.
                 Ba mươi năm lẻ đời như mộng,
                 Mấy tiếng chim kêu chợt ngẩn người !
     Lục bát :
                 Quân thân ràng buộc một đời,
                 Thẹn cùng rừng núi sai lời nguyền xưa.
                 Ba mươi năm mấy nắng mưa,
                 Chim kêu tỉnh mộng như vừa hôm qua !

                                             Đỗ Chiêu Đức

5. Bài thơ HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM :

     Inline image

 海口夜泊有感        HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM 
湖海年來興未闌,    Hồ hải niên lai hứng vị lan,
乾坤到處覺心寬。    Càn khôn đáo xứ giác tâm khoan.
眼邊春色薰人醉,    Nhỡn biên xuân sắc huân nhân túy,
枕上潮聲入夢寒。    Chẩm thượng triều thanh nhập mộng hàn.
歲月無情雙鬢白,    Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch,
君親在念寸心丹。    Quân thân tại niệm thốn tâm đan.
一生事業殊堪笑,    Nhất sinh sự nghiệp thù kham tiếu,
嬴得虛名落世間。    Doanh đắc hư danh lạc thế gian !

* Chú Thích :
    - HỨNG 興 : là Cảm hứng. Nếu đọc là HƯNG thì có nghĩa là Nổi dậy.
    - LAN 闌 : là Sắp hết, sắp tàn. HỨNG VỊ LAN 興未闌 : là Rất còn hứng thú chưa tàn phai. 
    - ĐÁO XỨ 到處 : Nơi mà ta đến, nên có nghĩa là KHẮP NƠI.
    - HUÂN 薰 : Có THẢO ĐẦU nên có nghĩa là một loại cỏ thơm, là Hơi thơm.
    - TRIỀU THANH 潮聲 : là Tiếng sóng.
    - THÙ 殊 : là Đắc biệt, là Chấm dứt. THÙ KHAM TIẾU 殊堪笑 : Là Chấm dứt một cách khá buồn cười.
    - LẠC 落 : là Rụng, Rơi, Rớt. LẠC THẾ GIAN 落世間 : là Còn Rơi rớt lại, còn để lại trên đời.

* Nghĩa Bài Thơ :
                             Cảm Hứng Đêm Đậu Thuyền Ở Cửa Biển
        Những năm gần đây sống kiếp hải hồ nhưng cái hứng vẫn chưa tàn; Cảnh trời đất khắp nơi đều làm cho lòng ta cảm thấy khoan khoái. Trước mắt ta mùi hương của sắc xuân làm say đắm lòng người, tiếng sóng trên sông nước đưa ta vào giấc ngủ lạnh lẽo. Ngày tháng qua đi một cách vô tình, khiến cho hai bên tóc mai đà bạc trắng, mà tấc lòng trung hiếu vẫn phải gìn giữ sắt son. Sự nghiệp một đời chấm dứt một cách đáng buồn cười, vì chỉ có được chút hư danh để lại cho thế gian mà thôi !

* Diễn Nôm :
                     HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM 

                   Inline image

                   Mấy năm hồ hải hứng chưa tàn,
                   Trời đất khắp nơi thảy chứa chan.
                   Xuân sắc thoảng hương người chếnh choáng,
                   Sóng sông đưa lạnh mộng lan man.
                   Vụt vù năm tháng đầu đà bạc,
                   Canh cánh hiếu trung dạ chửa an.
                   Sự nghiệp một đời cười chấm dứt,
                   Hư danh còn chút để dân gian !
      Lục bát :
                   Giang hồ cảm hứng chưa tàn,
                   Khắp nơi trời đất đều khoan khoái lòng.
                   Hương xuân ngây ngất mênh mông
                   Rì rào bên gối sóng sông mơ màng.
                   Bạc đầu năm tháng thời gian,
                   Hiếu trung giữ vẹn riêng mang tấc lòng.
                   Một đời sự nghiệp hư không,
                   Khẩy cười một tiếng theo dòng thế gian !

                                                   Đỗ Chiêu Đức

1 nhận xét:

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...