Nghiên Cứu Quốc Tế
Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay, tính ngụy khoa học
và phản tự nhiên của thuyết tiến hóa đã lộ ra rõ ràng đến nỗi những
người không chuyên ngành về sinh học cũng có thể nhận thấy. Điển hình là
trường hợp của Phillip Johnson, một giáo sư luật tại Đại học California
ở Berkeley, trở thành một trong những nhà tiên phong trong sự nghiệp
giành lại sự thật cho sinh học – tố cáo sự vi phạm luật tự nhiên của học
thuyết Darwin. Trong hơn 20 năm qua Johnson liên tiếp cho ra mắt một
loạt tác phẩm phê phán thuyết tiến hóa, thậm chí với tư cách một học giả
về luật pháp, ông nêu câu hỏi thách thức: “Thuyết tiến hóa có thể chứng
minh được tại một phòng xử án hay không?” (Can Evolution be proved in a
courtroom?).
Câu hỏi ấy là lời giới thiệu cuốn “Darwin on Trial” (Darwin được đem
ra xét xử) xuất bản năm 1991. Năm 1997, ra mắt cuốn “Defeating Darwinism
by Open Minds” (Đánh bại học thuyết Darwin bằng tư duy mở). Năm 2006,
ra mắt cuốn “Darwinism’s Nemesis” (Sự báo ứng đối với Darwin),….
Richard Dawkins là một nhà tiến hóa học nổi tiếng. Khi được hỏi “liệu
ông có bằng chứng nào để chứng minh cho sự tiến hóa hay không?”,
Dawkins đã ngớ người ra, im lặng suy nghĩ một lúc rất lâu không trả lời
được, đơn giản vì làm gì có bằng chứng (tìm xem video “Richard Dawkins
stumped by creationists’ question” (Richard Dawkins bị bí bởi câu hỏi
của những người theo thuyết sáng tạo). Còn đây là thêm 2 videos bác bỏ
Darwin:
The Great Evolution Hoax (Trò đánh lùa vĩ đại về tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=w8k_Ja34ymQ
DNA is the Greatest Enemy of Evolution Theory (DNA là kẻ thù lớn nhất của Thuyết Tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=ZHQYj3xfo9w
Toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và
cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện
đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không
chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những
thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên
tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A
tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm
giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển
tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng,
nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số
lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng
phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu
về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý
thuyết của ông sẽ lâm nguy. Vâng, chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này
trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái
đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất
đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không
tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một
nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm
trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.
Có nghĩa là ngay trong thời của Darwin, người ta đã ra công đào xới,
tìm kiếm hóa thạch của các thế hệ chuyển tiếp quá độ, và không tìm thấy
gì cả. Từ đó đến nay, 156 năm đã trôi qua, kể từ ngày cuốn “Về nguồn gốc
các loài” ra đời, vẫn chẳng hề tìm thấy gì cả. Thời gian đã quá đủ để
thấy sự thật, rằng KHÔNG TỒN TẠI những thế hệ chuyển tiếp, đơn giản vì
KHÔNG CÓ SỰ TIẾN HÓA. Nói cách khác, phỏng đoán “vĩ đại” của Darwin là
SAI – sai vì tin rằng có tiến hóa.
Một lần nữa xin nhấn mạnh rằng Darwin ý thức rất rõ rằng vấn đề hóa
thạch sẽ quyết định “sinh mạng lý thuyết” của ông. Bằng chứng là ông
dành hẳn một chương trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” để bàn về vấn đề
này. Đó là Chương 9, nhan đề “On the Imperfection of the Geological
Record” (Về thiếu sót trong hồ sơ địa chất), trong đó ông viết: “Sự giải
thích, như tôi tin, nằm trong sự cực kỳ thiếu sót của hồ sơ địa chất”.
Thế đấy, Darwin đã cảnh báo rằng hồ sơ địa chất (tìm hóa thạch) là cực kỳ thiếu sót.
Đó là lý do để các đệ tử của Darwin phải tìm mọi cách lấp đầy khoảng
trống tiến hóa từ vượn lên người. Họ dựng lên bức tranh tiến hóa “rất
đẹp” từ vượn lên người, rồi cho phổ biến rộng rãi, nhằm tiêm nhiễm vào
đầu óc mọi người, đặc biệt là trẻ em, rằng thuyết tiến hóa là một sự
thật. Với công nghệ 3D hiện đại, nhiều bức tranh tiến hóa được bịa ra
bằng những xảo thuật đánh lừa bậc thầy (hình đi kèm là một ví dụ).
Nhưng những hóa thạch mà họ lấp đầy khoảng trống từ vượn lên người thực
ra đều là những là những loài khỉ hoặc vượn 100% đã tuyệt chủng, hoặc
đôi khi là hóa thạch người 100% thời tiền cổ đại. Họ lừa được đa số mọi
người, vì đa số là những người không chuyên. Nhưng họ không lừa nổi các
chuyên gia sinh học trung thực. Chẳng hạn như Michael Denton, một nhà
sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in
Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985,
trong đó viết:
“Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi
trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ
trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết
chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu
như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.
Hoảng sợ trước việc không tìm thấy hóa thạch dưới lòng đất, các nhà
tiến hóa nghĩ ra cách tìm “hóa thạch sống”. Đó là trường hợp đầu thế kỷ
20, họ đổ vấy cho người Aborigines (thổ dân) ở Australia chính là một
loại “người-khỉ/khỉ-người” – một trong những cái được gọi là missing
links (mắt xích chuyển tiếp bị mất tích) mà họ cần tìm kiếm để cứu vãn
thuyết tiến hóa. Những cuộc truy lùng, săn bắt, thảm sát thổ dân đã diễn
ra nhằm lấy hộp sọ nghiên cứu. Đó là một trang lịch sử đen tối của Úc,
một vết thương âm ỉ trong lòng xã hội Úc đến nay vẫn chưa lành. Ngày nay
ai cũng biết rõ đó là một tội ác của những kẻ nhân danh thuyết tiến
hóa, vậy mà thuyết tiến hóa vẫn được tung hô, bằng cách bịt mắt lại để
không nhìn thấy những hậu quả phi nhân mà nó đã gây ra trên thế giới,
đỉnh cao là chủ nghĩa quốc xã Đức đầu thế kỷ 20. Phải mất nhân tính đến
mức độ nào nữa thì người ta mới đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật để
kết tội thuyết tiến hóa? Câu hỏi của Grenville Kent trên tạp chí SIGNS
of the Times của Australia: “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy
Hitler điều gì?) vẫn không có nhà tiến hóa nào dám lên tiếng trả lời. Họ
biết trả lời sao đây? Bởi chính ông thầy của họ, Charles Darwin đã dạy
họ rằng “trong một thời gian không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ,
các chủng tộc văn minh hầu như sẽ tiêu diệt các chủng tộc man rợ trên
khắp thế giới”.
“Không có Học thuyết Darwin, đặc biệt các lý thuyết con của nó như
thuyết ưu sinh và Darwin xã hội, cả Hiler lẫn những phần từ quốc xã đi
theo hắn đều sẽ không có một chỗ dựa khoa học cần thiết để tự thuyết
phục mình và thuyết phục những kẻ hợp tác với chúng rằng một trong những
sự độc ác kinh khủng nhất lại thực sự đáng được ca ngợi về mặt đạo đức”
(Richard Weikart, nhà lịch sử tại Đại học Tiểu bang California).
Đó là hệ quả tất yếu của lý thuyết đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu
thua, cái được coi là động lực của tiến hóa. Hitler chỉ đơn giản là áp
dụng lý thuyết đó vào xã hội loài người mà thôi. Chính Darwin đã lát
đường cho Hitler! Chính Darwin đã cung cấp cho chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc một cơ sở ngụy khoa học để nó tiến hành những hành vi phản nhân
loại nhân danh tiến hóa. Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đầu thế kỷ 20 đã vạch
trần bản chất phi nhân này trong học thuyết Darwin.
Nhưng học thuyết Darwin mất uy tín không chỉ vì chủ nghĩa quốc xã. Lý
do chủ yếu để nó mất uy tín là ở bản chất phi khoa học, hay chính xác
hơn, bản chất phản khoa học của nó.
Nó phi khoa học vì vô bằng chứng: “Lý thuyết của Darwin về nguồn gốc
các loài không có lấy một sự kiện thực tế nào để xác nhận nó trong thế
giới tự nhiên. Nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, mà
thuần túy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng” (trích đoạn trang 13, cuốn
Witnesses Against Evolution (Những bằng chứng chống lại thuyết tiến hóa)
của John Meldau, do Christian Victory Publishing xuất bản năm 1968 tại
Denver, Mỹ).
Nó phản khoa học vì toàn bộ lý thuyết của nó dựa trên một cơ chế phi
hiện thực – sự chọn lọc tự nhiên dẫn tới những biến dị có lợi qua hàng
triệu, hàng tỷ năm biến loài này thành loài khác. Michael Denton gần như
giận dữ bác bỏ cơ chế này:
“Không ở đâu Darwin có thể chỉ ra một trường hợp đích thực của chọn
lọc tự nhiên đã thực sự gây ra biến đổi tiến hóa trong tự nhiên… Rốt
cuộc, lý thuyết tiến hóa của Darwin không hơn không kém một câu chuyện
hoang đường về nguồn gốc vũ trụ trong thế kỷ 20” (trích trang 62, 358,
“Evolution, A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết trong khủng
hoảng) của Michael Denton, NXB Adler & Adler, Maryland, Mỹ, 1986).
Khoa học chưa từng chứng kiến một biến dị có lợi nào. Ngược lại, hầu
hết biến dị đều dẫn tới bệnh tật, hủy hoại sinh vật. Chọn lọc tự nhiên,
một cơ chế tưởng tượng, không “dại gì” mà lựa chọn những biến dị có hại.
Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên không hoạt động, hay chính xác hơn,
không có chọn lọc tự nhiên.
Toán học chứng minh rằng xác suất để xẩy ra liên tiếp hàng triệu,
hàng tỷ những biến dị “có lợi” trong quá trình “tiến hóa” hàng triệu,
hàng tỷ năm là một đại lượng coi như bằng 0, cơ may để biến dị dẫn tới
tiến hóa là hoàn toàn KHÔNG CÓ. Chọn lọc tự nhiên là một khái niệm tưởng
tượng. Chọn lọc tự nhiên dẫn tới tiến hóa là chuyện hoàn toàn hoang
đường!
Các nhà tiến hóa đã tiến hành những thí nghiệm hòng tạo ra những biến
dị làm thay đổi loài. Nhưng họ thất bại thảm hại. Chẳng hạn, họ đã thực
hiện những thí nghiệm chiếu xạ hoặc tác động hóa học đối với ruồi giấm
trong hơn 1500 thế hệ. Kết quả, ruồi vẫn là ruồi, ruồi chẳng hề biến
thành bất cứ con vật nào khác. Hơn nữa, trong những thế hệ tiếp nối, rất
nhiều con bị chết, nhiều con bị xoăn cánh hoặc cánh cụt ngủn.
Dưới con mắt vật lý, biến dị chính là một biểu hiện của Định luật
Entropy (Định luật thứ hai của nhiệt động học) – định luật nói rằng vật
chất biến đổi theo chiều hướng càng ngày càng xấu đi, hỗn loạn hơn.
Entropy là đại lượng đo mức độ vô trật tự của một hệ thống. Định luật
entropy khẳng định entropy chỉ tăng, không giảm (có thể không tăng trong
giai đoạn ngắn). Biến dị là một biểu hiện của sự tăng entropy. Vậy biến
dị là một biến đổi ngược chiều với tiến hóa, vì tiến hóa là khái niệm
cho rằng sự vật ngày càng có tổ chức cao hơn, trật tự hơn. Vậy lý thuyết
nói rằng biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn sai lầm, phản tự nhiên.
Tính chất tưởng tượng bịa đặt đó bị tố cáo mạnh mẽ trong cuốn
“Evolution and the Emperor’s New Clothes” (Thuyết tiến hóa và bộ quần áo
mới của hoàng đế) của N.J.Mitchell, do Roydon Publications xuất bản tại
Anh năm 1983. Xin trích đoạn:
“Các nhà khoa học, những người đang truyền bá rằng tiến hóa là một sự
thật của cuộc sống, là những kẻ đánh lừa người khác bằng sự cả tin, và
câu chuyện họ đang kể là trò lừa bịp hơn bao giờ hết. Trong khi giải
thích sự tiến hóa, chúng ta mảy may không có một chút sự thật nào cả”.
Trước trào lưu chống thuyết tiến hóa ngày càng mạnh, thái độ của các
nhà tiến hóa ra sao? Hoặc là im lặng, bởi “im lặng là vàng”. Càng làm to
chuyện, chân tướng thuyết tiến hóa càng lộ rõ. Đúng ra, những người
chống thuyết tiến hóa mới đang là những người muốn làm to chuyện, muốn
đưa thuyết tiến hóa ra tòa, như Phillip Johnson chẳng hạn. Thực sự các
nhà tiến hóa đã và đang rơi vào tình thế rất lúng túng, như Richard
Dawkins đã lúng túng trong cuốn video ở trên. Tuy nhiên, bản chất ngoan
cố của con người là điều không làm ai ngạc nhiên. Các nhà tiến hóa vẫn
loanh quanh chống chế. Họ kém trung thực so với ông thầy của họ, Charles
Darwin.
Thật vậy, dù sao thì Darwin vẫn hơn hẳn các đệ tử của ông vì thái độ
trung thực. Nỗi lo lắng của ông về sự thiếu vắng bằng chứng hóa thạch là
một ví dụ điển hình. Theo Adrian Desmond và James Moore kể lại trong
cuốn “Darwin” (do W.W.Norton and Company xuất bản tại New York năm 1991,
trang 456, 475) thì có lần Darwin tâm sự với Asa Gray rằng:
“… Tôi hoàn toàn ý thức được rằng những phỏng đoán của tôi đã vượt quá
giới hạn của khoa học thực sự… Nó chỉ là một mảnh vụn của một giả thuyết
với nhiều sai lầm và lỗ hổng cũng như những phần đúng đắn” (…I am quite
consciuos that my speculations run beyond the bounds of true science…
It is a mere rag of an hypothesis with as many flaws & holes as
sound parts).
Thú thực, tôi kính trọng Darwin hơn chính vì lời thú nhận nói trên,
thay vì ở lý thuyết của ông. Nhưng càng kính trọng sự trung thực của ông
bao nhiêu, tôi càng thất vọng với sự ngoan cố của các đệ tử của ông bấy
nhiêu. Họ cố tình che đậy những lời thú nhận của Darwin bấy lâu nay.
Nhưng internet đã làm họ thất bại! Sự thật đang ngày càng lộ ra, và lời
tiên báo của Soren Lovtrup sẽ trở thành sự thât: “một ngày nào đó, học
thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như trò lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử
khoa học”.
Vậy mà Charles Darwin từng được nhiều sách báo và trang mạng tôn vinh
như một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại (!!!). Chẳng
hạn, Darwin được coi là một trong 12 người khổng lồ trong cuốn “On
Giants’ Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg.
Trên trang mạng Biography Online, Darwin được tôn vinh như một trong 10
nhà khoa học vĩ đại nhất, vì “đã phát triển lý thuyết tiến hóa bất chấp
sự không tin tưởng và nghi ngờ, và đã sưu tập được những bằng chứng
trong 20 năm, và công bố các kết luận trong cuốn On the Origin of
Species năm 1859”. Thật lố bịch hết chỗ nói. Tôi không tìm được một
trường hợp thứ hai nào trong lịch sử khoa học lố bịch như trường hợp
này.
Nhưng dù gia công đánh bóng tên tuổi Darwin bằng cách nào đi chăng
nữa, hai tác phẩm chủ yếu của Darwin, “Về nguồn gốc các loài” (1859) và
“Nguồn gốc loài người” (1871) chính là 2 bằng chứng sẽ chôn vùi thanh
danh của Darwin, và đến một ngày không xa, có thể tính bằng số năm
tháng, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt vĩ đại nhất
trong lịch sử khoa học. Sự thật sẽ không thể che đậy được mãi!
Nguồn: Pham Viet Hung’s blog
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
EM MÙA THU, CHIỀU MƯA THÁNG MƯỜI - Thơ Ngọc Ánh
Tranh Hứa Xuân Trường EM MÙA THU Em ďi dưới nắng Xuân hồng đó Mái tóc mây trời trong trắng bay Má đào đã ửng hây hây đỏ Em thướt tha ngời tr...
-
CON MỂN VÀ ĐIỀM BÁO KHÔNG MAY MẮN Con thú rừng có tên “ Mển ” hay“ Mang” , còn gọi là hoẵng , kỉ , là mộ...
-
Năm nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực kh...
-
Bối cảnh lịch sử: Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồ...
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa