Tạp Ghi và Phiếm Luận :
Phiếm về PHẬT, PHÁP, TĂNG
Ta thường nghe câu QUY Y TAM BẢO 皈 依 三 寶. Vậy TAM BẢO là gì ?
Thưa, TAM BẢO là : PHẬT BẢO 佛 寶, PHÁP BẢO 法 寶 và TĂNG BẢO 僧 寶 nên QUY Y
TAM BẢO còn được nói thành: QUY Y PHẬT, QUY Y PHÁP và QUY Y TĂNG. Nói
cho gọn lại là TAM QUY Y 三 皈 依. Vậy thì QUY Y 皈 依 là gì? Ta sẽ lần lượt
tìm hiểu sau đây.
Theo "Chữ Nho... Dễ Học" thì QUY 歸 có nghĩa là VỀ, là THEO VỀ. Theo qúa trình diễn tiến hình thành của chữ viết như sau :
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn, Tiểu Triện cho đến Lệ Thư, chữ QUY 歸 gồm: Bên
trái phía trên là bộ Phụ 阜 : là làng xóm chợ búa dựa theo ven sông. Phía
dưới là chữ Chỉ 止 : là dừng lại. Bên phải là chữ Trửu 帚 : là cây chổi.
Hàm ý là... Người du tử ngày xưa khi dừng chân trên một làng mạc ven
sông nào đó, chợt thấy người đàn bà cầm cây chổi quét nhà, mà chạnh lòng
muốn quay trở lại quê nhà, như nhà thơ Thế Lữ đã viết trong bài thơ
"Giây Phút Chạnh Lòng"...
Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
Chiều thu se lạnh gió heo may.
Dừng chân trên bến sông xa vắng,
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây !
nên...
QUY có nghĩa VỀ là vậy. Ta có những từ thường gặp như :
- VU QUY 于 歸 : là về nhà chồng. Có nghĩa là Lấy chồng.
- QUY NINH 歸 寧 : là Gái có chồng về nhà thăm cha mẹ ruột gọi là Quy
Ninh. Khi Thúc Sinh vừa lên đường về Lâm Truy với Thúy Kiều thì Hoạn
Thư cũng đi về nhà "mét má" ngay :
Gió câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường QUY NINH.
Còn...
QUY PHỤC 歸 服, QUY THUẬN 歸 順 : đều có nghĩa là Ngoan ngoãn mà về theo ai đó.... Còn....
Chữ QUY 皈 trong Kinh Phật thì có Bộ Bạch 白 là Trắng, sáng ở bên
trái, còn bên phải là Chữ Phản 反: là Ngược lại, QUY 皈 nầy là một dị
bản, một cách viết khác của chữ QUY 歸 nêu trên. Nếu chiết tự thì có
nghĩa : Đang trong chỗ tối, đi ngược lại để trở về với chỗ sáng. Đặc biệt là chữ QUY 皈 nầy CHỈ DÙNG TRONG KINH PHẬT chứ không được dùng rộng rãi như chữ QUY 歸 trên.
Chữ Y 依 là chữ Hình Thanh, có diễn tiến chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy :
Chữ Y 依 bên trái có bộ NHÂN 亻là Người chỉ Ý; bên phải là bộ Y 衣
là Áo chỉ ÂM. Nên Y 依 có nghĩa là Dựa, là Tựa vào ai đó; Nghĩa rộng là
Nương Theo, là Nhờ vào, là theo về. Nên...
QUY Y 皈 依 : là Về để nương tựa theo, là Dốc lòng về với ... Hiểu
rộng ra là Bỏ chỗ tối về với chỗ sáng; Bỏ nơi mê muội mà về nơi bến
giác; Vượt qua bể khổ để đến với niết bàn... nhưng,...
Trên đây chỉ là chiết tự theo chữ Nho để phiếm cho vui và để dễ
nhớ mà thôi, chứ nếu muốn tìm hiểu ý nghĩa của của nhóm từ QUY Y TAM BẢO
hay TAM QUY Y 三 皈 依 thì phải theo nghĩa của các chữ Phạn trong kinh Phật thì mới thấu đáo rõ ràng được.
Theo Phạn ngữ thì TAM QUY Y là "Tisarana", "Ti" là Tam, và
"sarana" là Nơi Phù hộ che chở, ý muốn nói là do Phật Pháp Tăng ba ngôi
hình thành nơi che chở phù hộ cho những ai theo về. Trong chương thứ 14
của kinh "A tỳ Đạt ma câu xá luận 阿 毘 達 磨 俱 舍 論" (Phạn ngữ là Abhidharmakośabhāṣya) thì giải thích...
QUY Y là "Saranam gacchami". Gacchami là Động từ chỉ sự thẳng tiến, đến nơi, và Saranam là Danh từ chỉ sự che chở phù hộ. Như vậy, thì QUY Y là "Thẳng tiến đến nơi mà ta sẽ được sự che chở phù hộ", nói cách khác là "Về với Phật Pháp Tăng để hưởng được sự phù hộ và che chở". Cũng theo Kinh trên, Saranam gacchami còn có nghĩa là Cứu tế và Nương tựa, nên mới được các nhà dịch thuât Trung Hoa dịch là QUY Y : là Về để nương tựa vào Tam Bảo là PHẬT PHÁP TĂNG.
Chữ PHẬT 佛 gồm có chữ NHÂN 亻là Người ở bên trái và chữ PHẤT 弗 là
Không, là Chẳng ở bên phải. Đây là chữ vừa được ghép theo Hài Thanh, lấy
âm PHẤT để đọc là PHẬT; vừa ghép chữ theo Hội Ý là gom nghĩa của 2 phần
phải trái lại là PHẤT NHÂN 弗人, có nghĩa là : Chẳng phải người tầm
thường. Vâng PHẬT 佛 là người chẳng tầm thường chút nào cả !
Trong tác phẩm SÃI VÃI của cụ Nguyễn Cư Trinh, một trọng thần và
là một võ tướng giỏi Nho học trấn giữ biên cương mở mang bờ cõi về phía
Nam cho Chúa Nguyễn, có một câu như sau :
Nghiệm chữ kia cho xác, chữ TIÊN 仙 là Nhất Cá Sơn Nhân 一 個 山 人,
Suy chữ nọ cho chơn, chữ PHẬT 佛 là Phất Tri Nhân Sự 弗 知 人 事.
Có nghĩa :
- Chữ TIÊN 仙 được ghép bởi bộ NHÂN 亻 là Người và bộ SƠN 山 là
Núi."Nhất Cá Sơn Nhân 一 個 山 人" là một con người ở trên núi. Có ý mĩa mai
là Tiên ở trên núi thì cũng chỉ lo sung sướng cho bản thân mình thôi
chứ không có ích gì cho đời cả.
- Chữ PHẬT cũng được ghép bởi bộ NHÂN 亻 và chữ PHẤT 弗. Nên Nguyễn
Cư Trinh lại mĩa là "Phất Tri Nhân Sự 弗 知 人 事" là "Chẳng cần biết đến
chuyện của người đời", chỉ cần mình giác ngộ siêu thoát thành Phật là được rồi.
Vì cụ Nguyễn Cư Trinh là một nhà Nho nhập thế, nên tích cực trong
việc giúp Chúa giúp đời, an bang tế thế, nên ông có ý mĩa mai những
người theo Đạo Lão, Đạo Phật, tu thành Tiên thành Phật để giải thoát cho
bản thân mình mà thôi chứ không có ích gì cho xã hội người đời cả.
Thực ra từ PHẬT đầu
tiên là từ dùng để chỉ những bậc chính giác, tu hành đắc đạo như là Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật vậy. Phật cũng chỉ chung cho nhất thiết chư
Phật của mười phương tam thế và tất cả chúng sinh giác ngộ trong tu tập
đều có thể thành Phật cả. Thập Bát La Hán ngày xưa chẳng phải là mười
tám tên cường đạo đó sao ?! Nên ta lại có thành ngữ :
Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật.
放 下 屠 刀, 立 地 成 佛。
Có nghĩa :
Vừa bỏ con dao đồ tể giết người xuống thì sẽ thành Phật ngay tức thì !
Đây cũng là phép Đốn Ngộ 頓 悟 cuả Lục Tổ Huệ Năng đó.
Nói chung, PHẬT là những bậc đại giác ngộ, tu hành đắc đạo, đạt thành chánh qủa trong đạo Phật.
Còn PHÁP là Giáo Pháp của nhà Phật, bao gồm Tam quy Ngũ giới, mười
hai bộ kinh Tam Tạng và Tám vạn bốn ngàn Pháp môn của nhà Phật. Tóm lại,
PHÁP là cái phương pháp, cái phép tu tập để giúp cho con người được
giác ngộ sớm thành chánh qủa.
Còn TĂNG là những Sa Môn (Thầy Chùa), người chấp hành đạo pháp, tu
tập theo các pháp nôn của nhà Phật, vừa tu tập để chuyển hóa cho mình,
lại vừa phải hoằng dương Phật pháp, tức là phổ biến Phật pháp đến với
mọi nhà, mọi người và độ hóa tất cả chúng sinh được thoát nơi bể khổ để
về với niết bàn.
Trong qúa trình tu tập để hoằng dương Phật Pháp và để Phổ độ Chúng
sinh cũng cần phải có những phương tiện hỗ trợ cho các Sa môn, các Tăng
nhân hành đạo như : Phải có chùa chiềng miếu mạo, hương hoa trà qủa...
Ta hãy nghe ông SÃI của Nguyễn Cư Trinh kể lể :
... Sãi cũng muốn tu trì, ngặt thiếu đồ khí dụng.
Thiếu chuông thiếu trống; thiếu kệ thiếu kinh.
Thiếu sứa thiếu sinh; thiếu tiêu thiếu bạt;
Thiếu bình thiếu bát; thiếu đậu thiếu tương;
Thiếu bình bông lư hương; thiếu tiền bàn lá phủ;
Thiếu hài thiếu mũ; thiếu hậu thiếu y;
Thiếu tiền đường sơ ly; thiếu thượng phương liễn đối;
Thiếu bê son bình sái; thiếu tích trượng ca sa;
Thiếu hương thiếu hoa; thiếu xôi thiếu Phật...
Chính vì tu hành để hoằng dương Phật Pháp mà đòi hỏi đủ thứ đủ điều
như ông SÃI của Nguyễn Cư Trinh, nên mới có những SÀM TĂNG 讒 僧 như ngày
hôm nay mà ta đã biết...
* SÀM 讒 : là nói xấu, gièm pha, là thêu dệt những điều không có thật; Nên...
* SÀM NGÔN 讒 言: là Những lời nói bá láp bá sàm những điều không thực tế. Và...
* SÀM TĂNG 讒 僧 : là những ông thầy chùa xưng là Đại Đức Thượng Tọa
mà không biết thuyết pháp chỉ biết kêu gọi Phật tử cúng dường và phải
cúng dường bằng những giấy bạc có mệnh giá lớn, nếu cúng bằng tiền mệnh
giá nhỏ thì sẽ bị "xúi quẩy" quanh năm. Nằm võng sẽ bị mất phúc, hát
Kara-OK sẽ bị câm... như là Sàm Tăng Thích Chân Quang vậy.
MA TĂNG 魔 僧 : là những ông thầy chùa "Ma giáo". Đúc tượng phật giống
như là hình tượng của mình để cho Phật Tử chiêm bái. Lợi dụng nhà chùa
để bán thuốc dược thảo, mở quán kinh doanh bán đồ chay để moi tiền của
Phật tử. Một số lại hút thuốc uống rượu và ăn cả thịt chó... vi phạm ngũ
giới cấm một cách trắng trơn thô bạo, như Trụ trì Thích Tuệ Hải của
chùa Long Hương, Thích Tâm Phúc, Thích Minh Phượng...
Đức Phật dự ngôn về thời mạt Pháp: Sư giả mặc áo cà sa, phá hủy giới cấm - nguyenuoc.com
|
3 Vị SƯ THẦY D.â.m Nhất VIỆT NAM Thấy Gái Là…CHỖ ẤY | Ngẫm Sử Thi
|
Cũng
may là Việt Nam ta cũng đã từng có những Cao Tăng, Thần Tăng, Thiền
Tăng... nổi tiếng trong lịch sử, như Thiền sư Vạn Hạnh 萬 行 禪 師 (?-1018),
Mãn Giác Thiền Sư 滿 覺 禪 師 (1052-1096), Huyền Quang thiền sư 玄 光 禪 師
(Huyền Quang tôn giả 1254-1334), Hương Hải Thiền Sư 香 海 禪 師 (1628 -
1715)... Nhất là ta lại có cả một Phật Hoàng là ông Vua Trần Nhân Tông
(1258 - 1308) để thấy rằng Thiền hay không thiền, tu hay không tu gì...
cũng không thể không nhận chân cuộc sống thực tế trước mắt : Cha Mẹ, Anh
em, Bè bạn... Nhất là đối với Cha Mẹ, phải sống sao cho tròn ĐẠO CON
rồi mới nói đến những tu tập khác được! Nào, ta hãy cùng đọc bài "Cư
Trần Lạc Đạo 居 塵 樂 道" của nhà vua sau đây sẽ rõ:
居 塵 樂 道 且 隨 緣,
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
饑 則 餐 兮 困 則 眠.
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
家 中 有 寶 休 尋 覓,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
對 景 無 心 莫 問 禪!
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền !
* Chú Thích :
- CƯ TRẦN 居 塵 : là Sống ở trên cõi trần nầy, trên đời nầy.
- LẠC ĐẠO 樂 道 : là Vui với Đạo. Đạo gì cũng được. Đạo làm người, đạo Phật, đạo Khổng, đạo Thiên Chúa... cũng được !
- THẢ TÙY DUYÊN 且 隨 緣 : Nên tùy theo duyên phận. Tức là phải biết
sống theo hoàn cảnh của mình, không cầu kỳ đòi hỏi quá đáng.
- CƠ 饑 là Đói, SAN 餐 là bữa Ăn, KHỖN 困 là Mệt mỏi, buồn ngủ. MIÊN 眠 là ngủ.
- GIA TRUNG HỮU BẢO 家 中 有 寶 : là Trong nhà đã có sẵn bảo vật rồi. Ý
nói : Khỏi phải Quy Y Tam Bảo, vì trong nhà đã có sẵn Nhị Bảo là Cha và
Mẹ đó.
- HƯU TẦM MỊCH 休 尋 覓 : TẦM MỊCH là Tìm Kiếm. HƯU là Đừng, nên "Hưu Tầm Mịch" là Khỏi phải tìm kiếm.
- ĐỐI CẢNH VÔ TÂM 對 景 無 心: Đối diện với cảnh trí, hoặc Hoàn cảnh mà lòng không bị lay động ảnh hưởng.
- MẠC VẤN THIỀN 莫 問 禪: Đừng hỏi tới thiền nữa, Khỏi phải hỏi tới thiền nữa.
* Dịch nghĩa :
Sống Đời Vui Đạo
- Sống trong cõi trần thế này, hãy tùy duyên mà vui với đạo đời với đạo,
- Đói thì hãy ăn cơm, còn mệt, buồn ngủ thì hãy đi ngủ.
- Bảo vật đã có ở trong nhà rồi, đừng tìm ở đâu khác nữa,
- Đối diện với ngoại cảnh đổi thay mà vẫn giữ được cái tâm không động thì còn cần chi hỏi đến thiền nữa !
* Diễn Nôm :
Cõi trần vui đạo hãy tùy duyên,
Buồn ngủ, đói ăn, cứ thế liền.
Bảo vật trong nhà, tìm đâu nữa?!
An nhiên tự tại, hỏi chi thiền!?
Hai câu thơ cuối trong bài "Cư Trần Lạc Đạo" là:
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền !
...làm cho ta nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ "Khuyến hiếu ca 勸 孝歌" của dân gian là:
家 中 自 有 堂 前 佛,
Gia trung tự hữu đường tiền Phật
何 必 靈 山 見 世 尊?
Hà tất Linh sơn kiến Thế Tôn ?
* Có nghĩa :
- Trong phòng khách trong nhà, đã có sẵn Phật ở đó rồi ! (chỉ Cha Mẹ hằng ngày ngồi ở đó!).
- Sao lại còn phải đến Linh sơn để gặp đức Thế Tôn mà chi? (Đức Thế Tôn: Chỉ Phật Thích Ca.).
Nếu ở nhà không có hiếu với Cha Mẹ, không chăm sóc phụng dưỡng
Cha Mẹ cho đàng hoàng, thì dù cho có vượt đường xa muôn dặm đến tận Linh
Sơn để cầu lạy đức Thế Tôn, thì chắc Ngài cũng không chứng cho đâu !
* Diễn nôm :
Trên kham có sẵn Phật nhà ,
Sao còn diệu vợi đường xa đi tìm ?
...và hai câu thơ trên lại nhắc ta nhớ đến bài kệ, là một bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt sau đây :
佛 在 靈 山 莫 遠 求,
Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu,
靈 山 只 在 汝 心 頭。
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
人 人 有 個 靈 山 塔,
Nhơn nhơn hữu cá Linh sơn tháp,
好 向 靈 山 塔 下 修。
Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.
* Dịch nghĩa :
- Phật ở tại Linh Sơn, khỏi phải cầu cạnh đâu cho xa xôi. Nhưng Linh Sơn ở đâu ?
- Linh Sơn ở ngay trong trái tim của ta đây. Tâm tức Phật, Phật tức tâm mà, nên...
- Mỗi người đều có một cái Tháp Linh Sơn ở trong tim cả!
- Hãy cố gắng mà tu dưới cái tháp Linh Sơn của chính mình (là đủ rồi!).
* Diễn nôm :
Phật ở Linh Sơn chẳng đâu xa,
Linh Sơn ở tại trái tim ta !
Mỗi người đều có Linh Sơn Tháp,
Cứ gắng mà tu dưới tháp nhà !
Cũng như nhà sư Thích Minh Tuệ trước khi đi tu đã xin phép và đã
được cha mẹ cho phép đi tu hẵn hoi. Ông cũng đã từ chối thừa kế và biết
là mình còn anh em để chăm sóc cho cha mẹ lúc tuổi già, nên mới yên tâm
xuất gia mà tu hành theo con đường mà mình đã chọn. Nếu như ai đó còn có
Cha Mẹ cần phải phụng dưỡng thì không nên bỏ nhà để đi tu như là nhà sư
Thích Minh Tuệ vậy.
Trong bài ca 6 câu vọng cổ "Tu là cỗi phúc" của soạn giả Viễn Châu, mà nghệ sĩ Minh Cảnh hát sau khi đã xuống Xề là:
... "Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ Cha kính Mẹ... còn hơn là... đi tu!"
Tu là cội phúc - Trình bày: Minh Cảnh
Mong rằng tất cả mọi người đừng qúa mê muội, mà hãy tùy cơ, tùy
duyên, tùy hoàn cảnh của mình để mà tu tập thì mới có thể mong sớm được
giác ngộ và giải thoát !
Mong lắm thay !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét