Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

Tạp Ghi và Phiếm Luận : Phiếm về PHẬT, PHÁP, TĂNG (Đỗ Chiêu Đức)

Tạp Ghi và Phiếm Luận :  

                            Phiếm về PHẬT, PHÁP, TĂNG

                               
              

       Ta thường nghe câu QUY Y TAM BẢO 皈 依 三 寶. Vậy TAM BẢO là gì ? Thưa, TAM BẢO là : PHẬT BẢO 佛 寶, PHÁP BẢO 法 寶 và TĂNG BẢO 僧 寶 nên QUY Y TAM BẢO còn được nói thành: QUY Y PHẬT, QUY Y PHÁP và QUY Y TĂNG. Nói cho gọn lại là TAM QUY Y 三 皈 依. Vậy thì QUY Y 皈 依 là gì? Ta sẽ lần lượt tìm hiểu sau đây.

       Theo "Chữ Nho... Dễ Học" thì QUY 歸 có nghĩa là VỀ, là THEO VỀ. Theo qúa trình diễn tiến hình thành của chữ viết như sau :
                       
Ta thấy :
        Từ Giáp Cốt Văn, Tiểu Triện cho đến Lệ Thư, chữ QUY 歸 gồm: Bên trái phía trên là bộ Phụ 阜 : là làng xóm chợ búa dựa theo ven sông. Phía dưới là chữ Chỉ 止 : là dừng lại. Bên phải là chữ Trửu 帚 : là cây chổi. Hàm ý là... Người du tử ngày xưa khi dừng chân trên một làng mạc ven sông nào đó, chợt thấy người đàn bà cầm cây chổi quét nhà, mà chạnh lòng muốn quay trở lại quê nhà, như nhà thơ Thế Lữ đã viết trong bài thơ "Giây Phút Chạnh Lòng"...

                     Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
                     Chiều thu se lạnh gió heo may.
                     Dừng chân trên bến sông xa vắng,
                     Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây !
    nên...
          QUY có nghĩa VỀ là vậy. Ta có những từ thường gặp như :
      - VU QUY 于 歸 : là về nhà chồng. Có nghĩa là Lấy chồng.
      - QUY NINH 歸 寧 : là Gái có chồng về nhà thăm cha mẹ ruột gọi là Quy Ninh. Khi Thúc Sinh vừa lên đường về Lâm Truy với Thúy Kiều thì Hoạn Thư cũng đi về nhà "mét má" ngay :

                       Gió câu vừa gióng dặm trường,
                Xe hương nàng cũng thuận đường QUY NINH.
Còn...
      QUY PHỤC 歸 服, QUY THUẬN 歸 順 : đều có nghĩa là Ngoan ngoãn mà về theo ai đó.... Còn....
      Chữ QUY 皈 trong Kinh Phật thì có Bộ Bạch 白 là Trắng, sáng ở bên trái, còn bên phải là Chữ Phản 反: là Ngược lại, QUY 皈 nầy là một dị bản, một cách viết khác của chữ QUY 歸 nêu trên. Nếu chiết tự thì có nghĩa : Đang trong chỗ tối, đi ngược lại để trở về với chỗ sáng. Đặc biệt là chữ QUY 皈 nầy CHỈ DÙNG TRONG KINH PHẬT chứ không được dùng rộng rãi như chữ QUY 歸 trên.

     Chữ Y 依 là chữ Hình Thanh, có diễn tiến chữ viết như sau :
                     
                   Giáp Cốt Văn     Tiểu Triện          Lệ Thư
                            

Ta thấy :
        Chữ Y 依 bên trái có bộ NHÂN 亻là Người chỉ Ý; bên phải là bộ Y 衣 là Áo chỉ ÂM. Nên Y 依 có nghĩa là Dựa, là Tựa vào ai đó; Nghĩa rộng là Nương Theo, là Nhờ vào, là theo về. Nên...

       QUY Y 皈 依 : là Về để nương tựa theo, là Dốc lòng về với ... Hiểu rộng ra là Bỏ chỗ tối về với chỗ sáng; Bỏ nơi mê muội mà về nơi bến giác; Vượt qua bể khổ để đến với niết bàn... nhưng,...

       Trên đây chỉ là chiết tự theo chữ Nho để phiếm cho vui và để dễ nhớ mà thôi, chứ nếu muốn tìm hiểu ý nghĩa của của nhóm từ QUY Y TAM BẢO hay TAM QUY Y 三 皈 依 thì phải theo nghĩa của các chữ Phạn trong kinh Phật thì mới thấu đáo rõ ràng được. 
       Theo Phạn ngữ thì TAM QUY Y là "Tisarana", "Ti" là Tam, và "sarana" là Nơi Phù hộ che chở, ý muốn nói là do Phật Pháp Tăng ba ngôi hình thành nơi che chở phù hộ cho những ai theo về. Trong chương thứ 14 của kinh "A tỳ Đạt ma câu xá luận 阿 毘 達 磨 俱 舍 論" (Phạn ngữ là Abhidharmakośabhāṣya) thì giải thích...      
             

      QUY Y là "Saranam gacchami". Gacchami là Động từ chỉ sự thẳng tiến, đến nơi, và Saranam là Danh từ chỉ sự che chở phù hộ. Như vậy, thì QUY Y là "Thẳng tiến đến nơi mà ta sẽ được sự che chở phù hộ", nói cách khác là "Về với Phật Pháp Tăng để hưởng được sự phù hộ và che chở". Cũng theo Kinh trên, Saranam gacchami còn có nghĩa là Cứu tế và Nương tựa, nên mới được các nhà dịch thuât Trung Hoa dịch là QUY Y : là  Về để nương tựa vào Tam Bảo là PHẬT PHÁP TĂNG.

      Chữ PHẬT 佛 gồm có chữ NHÂN 亻là Người ở bên trái và chữ PHẤT 弗 là Không, là Chẳng ở bên phải. Đây là chữ vừa được ghép theo Hài Thanh, lấy âm PHẤT để đọc là PHẬT; vừa ghép chữ theo Hội Ý là gom nghĩa của 2 phần phải trái lại là PHẤT NHÂN 弗人, có nghĩa là : Chẳng phải người tầm thường. Vâng PHẬT 佛 là người chẳng tầm thường chút nào cả !

       Trong tác phẩm SÃI VÃI của cụ Nguyễn Cư Trinh, một trọng thần và là một võ tướng giỏi Nho học trấn giữ biên cương mở mang bờ cõi về phía Nam cho Chúa Nguyễn, có một câu như sau :

              Nghiệm chữ kia cho xác, chữ TIÊN 仙 là Nhất Cá Sơn Nhân 一 個 山 人, 
              Suy chữ nọ cho chơn, ch PHẬT   là Phất Tri Nhân Sự 弗 知 人 事.
Có nghĩa :
      - Chữ TIÊN 仙 được ghép bởi bộ NHÂN 亻 là Người và bộ SƠN 山 là Núi."Nhất Cá Sơn Nhân 一 個 山 人" là một con người ở trên núi. Có ý mĩa mai là Tiên ở trên núi thì cũng chỉ lo sung sướng cho bản thân mình thôi chứ không có ích gì cho đời cả.
      - Chữ PHẬT cũng được ghép bởi bộ NHÂN 亻 và chữ PHẤT 弗. Nên Nguyễn Cư Trinh lại mĩa là "Phất Tri Nhân Sự 弗 知 人 事" là "Chẳng cần biết đến chuyện của người đời", chỉ cần mình giác ngộ siêu thoát thành Phật là được rồi.

      Vì cụ Nguyễn Cư Trinh là một nhà Nho nhập thế, nên tích cực trong việc giúp Chúa giúp đời, an bang tế thế, nên ông có ý mĩa mai những người theo Đạo Lão, Đạo Phật, tu thành Tiên thành Phật để giải thoát cho bản thân mình mà thôi chứ không có ích gì cho xã hội người đời cả.

      Thực ra từ PHẬT đu tiên là từ dùng để chỉ những bậc chính giác, tu hành đắc đạo như là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật vậy. Phật cũng chỉ chung cho nhất thiết chư Phật của mười phương tam thế và tất cả chúng sinh giác ngộ trong tu tập đều có thể thành Phật cả. Thập Bát La Hán ngày xưa chẳng phải là mười tám tên cường đạo đó sao ?! Nên ta lại có thành ngữ :

                 Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật.
                    放   下  屠  刀, 立  地   成   佛。          
Có nghĩa :
              Vừa bỏ con dao đồ tể giết người xuống thì sẽ thành Phật ngay tức thì !
              Đây cũng là phép Đốn Ngộ 頓 悟 cuả Lục Tổ Huệ Năng đó.

     Nói chung, PHẬT là những bậc đại giác ngộ, tu hành đắc đạo, đạt thành chánh qủa trong đạo Phật.
     Còn PHÁP là Giáo Pháp của nhà Phật, bao gồm Tam quy Ngũ giới, mười hai bộ kinh Tam Tạng và Tám vạn bốn ngàn Pháp môn của nhà Phật. Tóm lại, PHÁP là cái phương pháp, cái phép tu tập để giúp cho con người được giác ngộ sớm thành chánh qủa.
     Còn TĂNG là những Sa Môn (Thầy Chùa), người chấp hành đạo pháp, tu tập theo các pháp nôn của nhà Phật, vừa tu tập để chuyển hóa cho mình, lại vừa phải hoằng dương Phật pháp, tức là phổ biến Phật pháp đến với mọi nhà, mọi người và độ hóa tất cả chúng sinh được thoát nơi bể khổ để về với niết bàn.
             
   
     Trong qúa trình tu tập để hoằng dương Phật Pháp và để Phổ độ Chúng sinh cũng cần phải có những phương tiện hỗ trợ cho các Sa môn, các Tăng nhân hành đạo như : Phải có chùa chiềng miếu mạo, hương hoa trà qủa... Ta hãy nghe ông SÃI của Nguyễn Cư Trinh kể lể :

           ... Sãi cũng muốn tu trì, ngặt thiếu đồ khí dụng.
               Thiếu chuông thiếu trống; thiếu kệ thiếu kinh.
               Thiếu sứa thiếu sinh; thiếu tiêu thiếu bạt;
               Thiếu bình thiếu bát; thiếu đậu thiếu tương;
               Thiếu bình bông lư hương; thiếu tiền bàn lá phủ;
               Thiếu hài thiếu mũ; thiếu hậu thiếu y;
               Thiếu tiền đường sơ ly; thiếu thượng phương liễn đối;
               Thiếu bê son bình sái; thiếu tích trượng ca sa;
               Thiếu hương thiếu hoa; thiếu xôi thiếu Phật...
                
               
     Chính vì tu hành để hoằng dương Phật Pháp mà đòi hỏi đủ thứ đủ điều như ông SÃI của Nguyễn Cư Trinh, nên mới có những SÀM TĂNG 讒 僧 như ngày hôm nay mà ta đã biết... 
     * SÀM 讒 : là nói xấu, gièm pha, là thêu dệt những điều không có thật; Nên... 
     * SÀM NGÔN 讒 言: là Những lời nói bá láp bá sàm những điều không thực tế. Và...
     * SÀM TĂNG 讒 僧 : là những ông thầy chùa xưng là Đại Đức Thượng Tọa mà không biết thuyết pháp chỉ biết kêu gọi Phật tử cúng dường và phải cúng dường bằng những giấy bạc có mệnh giá lớn, nếu cúng bằng tiền mệnh giá nhỏ thì sẽ bị "xúi quẩy" quanh năm. Nằm võng sẽ bị mất phúc, hát Kara-OK sẽ bị câm... như là Sàm Tăng Thích Chân Quang vậy.

     MA TĂNG 魔 僧 : là những ông thầy chùa "Ma giáo". Đúc tượng phật giống như là hình tượng của mình để cho Phật Tử chiêm bái. Lợi dụng nhà chùa để bán thuốc dược thảo, mở quán kinh doanh bán đồ chay để moi tiền của Phật tử. Một số lại hút thuốc uống rượu và ăn cả thịt chó... vi phạm ngũ giới cấm một cách trắng trơn thô bạo, như Trụ trì Thích Tuệ Hải của chùa Long Hương, Thích Tâm Phúc, Thích Minh Phượng...

               
Đức Phật dự ngôn về thời mạt Pháp: Sư giả mặc áo cà sa, phá hủy giới cấm - nguyenuoc.com


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thành Ngữ Điển Tích 114 : TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH.

  Thành Ngữ Điển Tích 114 :                                 TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH. Ao Chuôm  TRÌ ĐƯỜNG 池塘 là Ao chuôm, ao đầm, ao hồ...