Thứ Hai, 28 tháng 2, 2022
KỶ NIỆM VỚI PHỐ TÂY NINH. - Trịnh thị Hảo
Âm đức nghĩa là gì? Vì sao lại gọi là “âm”?
An Hòa
Các ghi chép khuyến thiện thời xưa thường xuyên nhắc đến các từ như “âm phúc”, “âm đức”, “âm công” để chỉ việc hành thiện tích đức, đắc thiện quả, phúc báo. Tuy nhiên vì sao một điều tốt đẹp như vậy lại gọi là “âm”? Những từ ngữ này được hiểu như thế nào trong văn hóa truyền thống?
Cổ ngữ có câu: “Người có âm đức, tất sẽ có âm báo”. Từ “âm” ở đây không mang nghĩa của “âm” trong âm phủ, số âm hay âm dương. Từ “âm” trong “âm công”, “âm đức”, “âm phúc” mang ý nghĩa là thầm lặng, ngầm, kín đáo, không hiển lộ ra bên ngoài, giống như ý nghĩa trong từ “âm thầm” vậy. Nó có nghĩa rằng người làm việc thiện chân chính là xuất phát từ nội tâm, họ không cầu danh, không cầu hồi đáp, do đó việc đại thiện thì thường được làm một cách âm thầm, kín đáo, lặng lẽ, không phô trương. “Người có âm đức, tất sẽ có âm báo” ý nói rằng người đại thiện sẽ tích được phúc đức, và Thượng Thiên cũng sẽ thầm lặng mà ban thiện quả cho họ. Việc nhân đức của họ vì vậy mà được gọi là “âm công”, phúc của họ do đó được gọi là “âm phúc”.
Ngày nay, con người khi gặp chuyện tốt đẹp hay xấu tệ thì đều cho đó là ngẫu nhiên, nhưng cổ nhân không cho là vậy. Văn hóa truyền thống cho rằng hết thảy danh vọng, tài vận, phúc lộc của một người đều là do đức và nghiệp tích từ nửa đời trước hoặc là các đời trước mà sinh ra. Người nào có được “âm đức” thì làm gì cũng thông thuận, hoặc nếu có khó khăn thì cũng là “hữu kinh vô hiểm”. Còn người nào có “ác nghiệp” thì làm gì cũng trắc trở, khó khăn, mà nếu không từ thủ đoạn đạt được thành công thì hậu quả lại là thân bại danh liệt, thậm chí tổn hại đến sinh mệnh của bản thân.
Có thể nói rằng “âm đức” là một trong những khái niệm cốt lõi của văn hóa truyền thống, không chỉ thể hiện tâm hướng thiện, mà còn thể hiện lòng kính sợ Trời đất Thần linh, tin vào “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”.
Khái niệm đầu tiên về “âm đức” có thể truy ngược đến cuốn “Thượng thư”. Trong đó viết rằng: “Duy Thiên âm chất hạ dân”, ý là Trời ở cõi u minh, thầm lặng định đoạt để an dân, giúp đỡ bảo vệ cho cuộc sống của họ được hòa hợp. “Âm chất” ở đây có cùng ý nghĩa với “âm đức”. Lý niệm về “âm đức” này là tư tưởng mộc mạc, thẳng thắn và chân thành nhất của con người cổ đại đối với Thiên mệnh. Người xưa tin rằng, mệnh của một người là do Thượng Thiên an bài và Thượng Thiên sẽ luôn ở trong âm thầm mà che chở, bảo hộ cho họ.
Trong cuốn “Âm đức văn”, “âm đức” còn mang ý nghĩa Thiên nhân cảm ứng. Con người khi hành thiện thì không cần khoa trương, chỉ cần lặng lẽ mà làm, bởi vì Thượng Thiên là tràn ngập trí huệ, tự có thể “cảm ứng” được lòng người. Cho dù một người làm việc thiện mà không ai biết thì Trời đất cũng sẽ âm thầm phù hộ và ban phúc lộc cho người ấy.
Vậy thì khi làm việc thiện mà thể hiện ra cho mọi người cùng biết thì có tích được “âm đức” không? Kỳ thực muốn biết có tốt hay không thì cần phải xét xem cái tâm của người ấy ra sao. Đây cũng là một hàm nghĩa khác của chữ “âm”, đó là người ngoài thì khó mà biết được một người đang chân chính làm việc thiện từ nội tâm, hay chỉ làm để người khác tôn kính mình hơn, coi trọng mình hơn, để xã hội tán dương mình hơn. Có những hành động trông thì là việc thiện, nhưng lại không hề tích được âm đức, bởi vì việc làm ấy đã phần nào trở thành phương tiện để truy cầu “danh” và “lợi” cho bản thân.
“Âm đức” là thiêng liêng, cho nên nếu làm việc thiện mà có tư tâm thì hiệu lực của “âm đức” sẽ tự nhiên mất đi, không tích được “âm công”, cũng không khởi được tác dụng chân chính của hành thiện.
Thời cổ đại, người ta ca ngợi đức của Thương Thang, vị vua khai quốc của nhà Thương, bởi ông là người có lòng nhân hậu lớn. Tương truyền một lần, ông thấy một nông phu giăng lưới bắt động vật, mà Đông Nam Tây Bắc đều quây lại, lại còn khấn xin trời đất cho tất cả các loài vật mắc lưới. Thương Thang bèn lệnh cho thuộc hạ tháo ba mặt lưới, chỉ để lại một phía, gọi là “Võng khai nhất diện” (lưới chỉ giăng một mặt mà thôi). Sau đó ông cầu rằng: “Chim bay trên trời, thú chạy dưới đất, muốn trốn thoát hãy cố gắng trốn thoát, nếu không nghe lời thì mới sa vào lưới này!”
Rất nhanh sau đó câu chuyện “Võng khai nhất diện” của Thương Thang được lưu truyền rộng rãi khắp chư hầu. Chư hầu thấy Thương Thang đối với chim thú cũng nhân từ như vậy đều lũ lượt quy thuận ông.
Câu chuyện của Thương Thang đã cho thấy rằng người ta chỉ cần khởi niệm đại Thiện là tự nhiên có được “âm đức” rồi. Đây cũng là chuyện “phóng sinh” rất ý nghĩa. Ngày nay, có những người mà tay phóng sinh, miệng niệm Phật, nhưng trong tâm thì lại cầu tài cầu lộc, hoặc giả cầu may mắn, cầu an lành, cũng không để ý đến chuyện phóng sinh là gì, làm thế có khiến nhiều con vật bị bắt, bị mua đi bán lại hay không, làm thế có khiến môi trường sinh thái bị phá hủy hay không. Nói một vài lời là đủ thấy “âm đức”, “thiện quả” sẽ không tới với họ rồi.
An Hòa
CHIA BUỒN : HT.NGUYỄN VĂN ĐÔI QUI VỊ (27.2.2022 )
CHIA BUỒN
Chúng tôi nhận tin buồn:
Hiền Tài NGUYỄN VĂN ĐÔI
Đã quy vị vào lúc 4 giờ 30 phút, ngày 27 tháng Giêng năm Nhâm Dần
(DL: 27-02-2022) tại Thị Xã Tây Ninh, Việt Nam
Hưởng Trung Thọ: 79 tuổi
Chúng tôi xin thành thật chia buồn cùng gia đình, tang gia hiếu quyến.
Cầu nguyện Đức CHÍ TÔN, Đức PHẬT MẪU và các Đấng Thiêng liêng độ dẫn Chơn linh Cố Hiền Tài NGUYỄN VĂN ĐÔI siêu thăng tịnh độ.
THÀNH KÍNH CHIA BUỒNNgày 28 tháng Giêng năm Nhâm Dần
- HT.Hồ văn Xưa và gia đình (San Jose, Cali)
- HT.Nguyễn Chánh Giáo và gia đình (Úc Châu)
- HT.Lê văn Muộn (Tây Ninh, Việt Nam)
- HT.Phạm Xuân Hòa (Tây Ninh, Việt Nam)
VIẾT CHO MỘT NGƯỜI,CHUYỆN QUAN GIÀ - Ngô Kế Đang
Cổ nhân thường nói “tích đức, thất đức” – Đức ấy là gì?
Thanh Trúc
Những người lớn tuổi thường hay dặn dò con cháu như thế này: “tích đức, làm việc tốt”. Khi có người làm việc thương thiên hại lý, cổ nhân thường có câu rằng: “thất đức, tổn đức”. Vậy đức ấy là gì?
Người xưa có câu: “Đức phối thiên địa, thiên tất hữu chi”, có nghĩa là đạo đức của người ta mà hài hòa với trời đất thì trời đất ắt sẽ phù trợ. Phong thủy lớn nhất của đời người chính là đức, chỉ khi nào có đạo đức tốt, nhân ái, lương thiện thì hạnh phúc thật sự mới tìm đến gõ cửa.
Bộ “彳” (xích) có nghĩa là bước đi chậm rãi, cũng có nghĩa là đức cần phải tích lũy lâu dài. Muốn tích đức thì cần luôn giữ thiện tâm, không phải là nhất thời hứng chí. Phúc đức là kết quả nỗ lực liên tục của cả một đời người.
Bộ “十” (thập) có nghĩa là nhiều, là đầy đủ, thập toàn thập mỹ, mười phân vẹn mười, ngụ ý là bất cứ lúc nào hay bất cứ nơi đâu cũng đều phải có thiện tâm, phải đức độ, khoan dung với mọi người.
Bộ “罒” (võng) thực chất là bộ mục (con mắt) nằm ngang, nhấn mạnh người có đức có thể nhìn thấy rõ những điều không chân chính, có thể nhận biết được đâu là đúng đâu là sai, đâu là tốt đâu là xấu.
Bộ “一” (nhất) là tổng thể, ý rằng người luôn có tầm nhìn bao quát, không ích kỷ, luôn chính trực, lý trí, trung thành, trong lòng không có tạp niệm, không lo lắng mới là người có đức.
Bộ “心” (tâm) là nói đến nội tâm, bồi dưỡng “đức” cần phải dựa vào tu ở tâm, chân tâm, thành thâm, chung tâm. “Tâm” nằm ở vị trí cuối cùng của chữ “đức” cho thấy đức là ở tận đáy lòng.
“Đức” có nghĩa là đạo đức, phẩm đức, phẩm hạnh. Những tính tốt như chân thành, kiên trì, nhẫn nại, vị tha, v.v. đều được gọi là “đức tính”. Người hay làm điều thiện, tấm lòng bao dung lại được gọi là người “đức độ”. Trong xã hội xưa kia, dù là bình dân bá tánh, quan lại hay kẻ làm vua đều phải biết “tu dưỡng đạo đức”. Điều đó đủ để thấy rằng một chữ “đức” đã gồm thâu lại tất cả những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Có một câu nói rằng: “Âm dương phong thủy hữu thiện chủ, thử đạo tà dâm nan hữu phúc. Cực thiện chi gia hữu dư khánh, đức phối thiên địa thị chân đồ.” Có nghĩa là phong thủy âm dương chỉ dành cho người sống thiện, những kẻ gian tà mưu mô dâm loạn thì khó mà có phúc. Những người ở lành thì sẽ dư dả, đức hòa hợp với trời đất là con đường đúng đắn nhất.
Mặc dù ngày nay đức không được coi trọng như trước kia, nhưng điều đáng quý là, thỉnh thoảng chúng ta lại có dịp thốt lên một câu rằng: “tài đức vẹn toàn”. Có tài mà không có đức thì sẽ gây họa loạn cho xã hội. Có người nói rằng có đức mà không có tài thì cũng vô dụng thôi. Nhưng không phải thế, có đức thì tất sẽ có tài. Nếu không phải cái tài ở phương diện kỹ thuật thì sẽ là cái tài khiến người khác mến phục tin tưởng, bởi vì đức chính là tiêu chuẩn để nhân loại nhận định tốt xấu, phân biệt đúng sai. Chính vì thế, có đức là có tất cả!
Thanh Trúc
Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2022
Tạp Ghi và Phiếm Luận : NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ (6)
THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 : THIÊN là Một ngàn; TẢI là Năm; NHẤT là Một; THÌ là Lúc, là Thuở. Nên THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 ta nói là "Ngàn Năm Một Thuở" để chỉ cơ hội nào đó hoặc chuyện gì đó rất hiếm khi xảy ra, họa hoằn lắm mới có được hay gặp được.
Bốn câu thơ THIÊN TẢI NHẤT THÌ... ở trên là lời cầm cọng rất thành khẩn chân tình của những người bạn thân thiết với nhau lâu ngày mới được gặp lại. Bốn chữ THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 còn là câu đố chiết tự để ghép thành một chữ mới : Lấy chữ THIÊN 千 trong Thiên Tải, ghép với chữ NHẤT 一 trong Nhất Thì, ta có được chữ NHÂM 壬 là Ngôi thứ 9 của Thiên Can, cũng là chữ NHÂM của năm NHÂM DẦN 壬寅 là năm nay đây.
BỈ THỬ NHẤT THÌ 彼此一時 là câu nói gọn lại của "BỈ NHẤT THÌ, THỬ NHẤT THÌ 彼一時,此一時". BỈ là Kia, là Cái kia; THỬ là Này, là Cái nầy. Câu nói có nghĩa :"Cái nầy một lúc, Cái kia một lúc". Đây là câu nói của Công Tôn Sửu trong sách Mạnh Tử 孟子公孫丑, ý muốn nói là : Cái thời cơ của lúc đó là như thế ấy, còn cái thời cơ của hiện tại là như thế nầy; Ý chỉ : Việc đời mỗi lúc mỗi khác; lúc xưa thì như thế kia, còn bây giờ thì như thế nầy, tức là phải biết "Tùy cơ ứng biến" chớ không chấp hành một cách cứng ngắt, không linh động. Như Vương Ông đã nói "Tu hành thì cũng phải khi TÒNG QUYỀN".
TÒNG TƯ 從茲 có nghĩa : Từ rày về sau; Từ nay trở đi...
Lâm Bình Duy Nhiên: Suy nghĩ vụn về một cuộc xâm lược
Xem Thêm :Người lính Ukraine tự nổ tung mình để đánh sập cây cầu chặn đoàn xe tăng Nga
Hồn ma đêm Giáng Sinh (Báo Mai )
Hồn ma đêm Giáng Sinh _ câu chuyện vượt qua lòng tham quỷ dữ Tất cả chúng ta đều từng gặp những người tham lam, và dường như với họ không ...
-
CON MỂN VÀ ĐIỀM BÁO KHÔNG MAY MẮN Con thú rừng có tên “ Mển ” hay“ Mang” , còn gọi là hoẵng , kỉ , là mộ...
-
Năm nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực kh...
-
Bối cảnh lịch sử: Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồ...