Con của má viết xong một bài văn, đôi khi đọc lại thấy cũng có cái
trúng mà cũng có cái trật; nhưng điều mà con sắp nói ra lần nầy chắc
chắn là trúng. Trúng trăm phần trăm! Cái đó là: Ai cũng có Mẹ, ai cũng
có Má hết! Và ai cũng thương Mẹ, ai cũng thương Má mình sâu thẳm tận
đáy lòng. Con cũng không là ngoại lệ! Nhớ năm 1964, ông Trưởng Ty Bưu
Điện Ban Mê Thuột đương nhiệm, bất ngờ ôm hết tiền trong két sắt, dắt
vợ con mà dông tuốt qua Lào. Số tiền nghe đâu cũng khẳm, lên tới vài
ba triệu, (lúc đó là rất lớn, vì vàng chỉ khoảng hai ngàn đồng một
lượng). Đó là tiền của mấy ông chủ đồn điền cà phê trên cái xứ Ban Mê
Thuột nầy gởi.
Ban Mê Thuột là đi 7 phút đã về chốn cũ, đi lâu hơn Pleiku được 2
phút, vì lớn hơn một chút. Mấy ông nhà văn, gốc lính, đến đây viết bài
gọi tưng nó lên, là thủ phủ cao nguyên, nơi đóng bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23
Bộ Binh. Ban Mê Thuột viết tắt là B.M.T nên thiên hạ chơi chữ, đặt cho
vài cái mỹ danh là ‘Bụi Mù Trời!’; vì tỉnh lỵ vốn nằm trên vùng đất
bazan, đỏ quạch, sình tới ống chân, nhão nhoét khi mùa mưa tới, rất
tốt cho mấy đồn điền trồng cà phê. Mùa nắng, xe qua, cuốn theo từng
lốc bụi mù. Xứ rừng, chim kêu, vượn hú, vui sao được? Nên còn gọi là
cái xứ ‘Buồn Muôn Thuở!’
Sau cái vụ thụt két rồi chạy của ông ‘thần’ nầy, mấy xếp lớn trên Tổng
Nha Bưu Điện lo sốt vó, bèn điều một ông khác từ Sài Gòn lên trên ấy
để sắp xếp, kiểm tra lại sổ sách coi ông Trưởng Ty cũ chính xác ôm
theo hết bao nhiêu tiền, để biết mà bồi thường cho khách hàng ký gởi.
Ông nầy không muốn đi, bèn xách giấy vô nằm nhà thương, né, vì sợ
chết… do tình hình chiến sự ở vùng cao nguyên lúc đó đã bắt đầu ác
liệt.
Quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đi Buôn Hồ, ngược về hướng Bắc lên tới phố
núi cao, phố núi đầy sương, Pleiku, hay chạy về hướng đông, hướng
biển, để tới Tuy Hòa bị VC cắt hoài bằng cách đắp mô, giựt mìn, phục
kích công voa. Từ Sài Gòn ra Ban Mê Thuột phải bay bằng máy bay cánh
quạt DC-3 của hãng Hàng Không Việt Nam.
Ba bị điều đi, mấy ổng hứa: “Đi đi! Hai tháng rồi về!”, nên không
thoái thác được, dù Ba Má rất đông con. Cả 7 đứa leo nheo lóc nhóc ở
Cư Xá Bưu Điện Hai Bà Trưng.
Ba đi, phải làm giấy ủy quyền cho Má tới cuối tháng là ra phòng lương
bổng của Tổng Nha Bưu Điện lãnh một phần lương về để nuôi mấy đứa con.
Nhà nghèo, chỉ có một đầu lương của Ba. Giờ còn phải chia hai.
Nhà vắng Ba như thiếu cái cột cái, thiếu cái mái. Gió! Trống huơ, trống hoác!
Tới bữa, cơm không thiếu nhưng đồ ăn thì dè xẻn lắm! Có bữa không có
đồ ăn luôn! Má phải nấu cơm hơi nhão rồi nén lại, cuốn vô mo cau, xong
dùng chỉ tét thành từng khoanh như bánh tét cho tụi con chấm với nước
mắm kho quẹt ăn mà trừ bữa. Hồi còn Ba ở nhà, Ba đi đánh máy mướn
thêm, nên cũng có đồng vô đồng ra mà đắp đổi. Ba đi, nhà vắng, tiền
cũng ‘hẻo’ theo luôn. Và Má dàu dàu buồn vì vắng chồng vốn đã quen hơi
hướm! Sớm tối có nhau!
Mấy ông quan lớn, ăn trên ngồi trốc, thiệt không có chút từ tâm nào mà
hiểu, mà cảm thông cho hoàn cảnh gia đình của cấp dưới! Mấy ổng chỉ lo
cho thân mấy ổng mà thôi! Hứa hão là Ba đi chỉ hai tháng; mà rốt cuộc
Ba phải xa nhà, xa vợ, xa con hơn cả năm trời. Ở nhà chỉ Má, một mình,
chèo chống!
Má thương con ăn đói, nên cuối tháng ra sở lãnh lương của Ba về, Má
xuống cái tiệm bán bê thui nằm gần cầu Kiệu và chợ Tân Định mua đâu
khoảng 300 gram thịt bê thui. Về, má bắt chảo lên cho mỡ vào, xào với
đậu phộng, bún tàu, củ hành. Dọn ra một dĩa, nhỏ xíu, lớn hơn bàn tay
một chút. Vậy mà khói bay lên, thơm phức. Con chạy u ra chợ, mua về
thêm bốn ổ bánh mì thiệt bự! Rồi Má kêu mấy anh em con xúm lại mà ăn! Mà ngộ! Má không ăn gì hết!
Hỏi: “Sao Má hổng ăn gì hết? Má!”
“Ờ! Má xào, cái hơi nó lên no rồi! Tụi con ăn đi!”
Nhỏ khờ đâu biết Má nói vậy là để nhường mấy miếng thịt bê ít ỏi, bé
tí teo đó cho đám con mình. Nên tụi nhỏ thiệt tình tranh nhau đớp
láng! Dĩa thịt bò hết sạch, vẫn còn thòm thèm, ngẩng nhìn lên, thấy
mắt má chớp chớp.
Má nói bâng quơ:
“Củi ướt quá, khói bay vô mắt Má!”
Đã gần 50 năm rồi không còn Má theo dõi bước đường đời con đi nữa. Quê
người thức ăn thừa mứa. Thịt bò muốn ăn bao nhiêu ký cũng không là
chuyện lớn. Bếp đốt bằng ga không còn đốt bằng củi như xưa. Không có
củi ướt để làm mình nhỏ nước mắt.
Nhưng mất Má rồi thì đâu cần tới khói bếp cay xè để mình rơi nước. Con
tha thiết nhớ về ngày tháng cũ. Những tháng ngày đáng yêu, dẫu trong
đói nghèo khi may mắn vẫn còn có Má!
Mất Má rồi thì không có cách chi để làm nước mắt thôi rơi khi Ngày Từ
Mẫu lại về trên quê người viễn xứ.
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2021
Khói Bay Vô Mắt - Đoàn Xuân Thu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)
Tạp Ghi và Phiếm Luận : Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ Ăn x ổi ở th ì,...
-
CON MỂN VÀ ĐIỀM BÁO KHÔNG MAY MẮN Con thú rừng có tên “ Mển ” hay“ Mang” , còn gọi là hoẵng , kỉ , là mộ...
-
Năm nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực kh...
-
Bối cảnh lịch sử: Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồ...
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa