Sách vở, báo chí, đài phát thanh và truyền hình người ta nói
nhiều về mẹ. Đa số đều nhắc đến những kỷ niệm êm đềm bên người mẹ
hiền, nhưng tôi thì khác. Tôi có mẹ mà như không có. Nỗi buồn này hầu
như theo đuổi suốt cuộc đời tôi…
Mẹ tôi là người vợ thứ hai của bố tôi. Bố tôi là một địa chủ khá
giầu, đã có vợ cả và nhiều con nhưng bố tôi lại là một người ham mê
sắc đẹp nên ông đã lấy mẹ tôi. Tôi không nhớ rõ mẹ tôi đẹp thế nào,
chỉ nhớ mẹ tôi có đôi môi hồng, làn da trắng, người cao cao, mặt trái
xoan, nhưng nghe bố tôi nói thì mẹ tôi đẹp lắm nên ông quyết lấy cho
bằng được dù phải bỏ ra rất nhiều tiền.
Gia đình bên ngoại không giầu bằng bên nội nhưng ông ngoại tôi có
nhiều con, hình như có tới tất cả 11, 12 người, trong đó có 8 người
con gái. Hai người chị của mẹ tôi đã lấy hai người em họ của bố tôi.
Cũng vì bố tôi hai vợ nên tôi đã phải chịu những sự đau buồn, tủi
nhục.
Ở ngòai Bắc thời xưa, đa số các ông địa chủ có tiền đều thi nhau
lấy nhiều vợ. Ông nội tôi có 3 vợ, bố tôi có 2, nhưng ông nội tôi là
người có bổn phận và có trách nhiệm. Tuy có 3 vợ nhưng mỗi bà ở một
nơi, mỗi bà một giang sơn riêng nên không có chuyện gì đáng tiếc xẩy
ra, nếu có ghen tuông chắc không đến nỗi trầm trọng. Bố tôi không như
ông nội tôi, bố tôi lấy vợ hai về song lại để hai bà ở chung với nhau
nên mới gây ra nhiều chuyện phiền phức sau này, sự ghen tuông hầu như
đã xẩy ra hàng ngày, tôi nghe cô tôi nói vậy. Tôi ra đời một năm sau
khi mẹ tôi lấy bố tôi. Cũng vì tôi là con trai nên sự ghen tuông càng
đi đến chỗ quyết liệt hơn. Bà cả sau khi sanh người con trai đầu lòng
thì sanh liên tiếp 4 người con gái. Bà đi xem bói, thầy bói nói rằng
số của bố tôi chỉ có 2 người con trai thôi, bà cả nghĩ rằng bà không
thể có con trai thêm nữa, vậy là tại mẹ tôi đã lấy đi phần con trai
của bà. Như sợ mất thế lực với mẹ tôi nên sự ghen tuông càng tăng lên,
bà cả bảo với bố tôi là một mình bà đẻ đủ rồi, lấy mẹ tôi về là để làm
lụng chứ không phải để đẻ nên bà nghĩ cần phải loại trừ mẹ tôi ra khỏi
nhà cho bằng được. Trời mùa Đông gía lạnh mà bà cả nhẩy xuống ao đòi
tự tử. Bố tôi sống trong cảnh ghen tuông thì mệt quá, đáng lẽ làm như
ông nội tôi tức là đưa bà hai ra ở riêng một nơi thì bố tôi lại không
làm thế… Mẹ tôi sau khi sanh ra tôi vì không trưng diện, ăn mặc xuề
xoà nên sắc đẹp không đủ để lôi cuốn bố tôi. Bố tôi một phần vì mệt
với sự ghen tuông, một phần vì nhan sắc mẹ tôi không còn như xưa nữa
nên ông đã thờ ơ, lạnh nhạt với mẹ tôi, để mặc mẹ tôi muốn làm gì thì
làm.
Mẹ tôi sống trong cảnh ghen tuông của bà cả và sự thờ ơ của
chồng nên đã phải ra đi, chịu cảnh bơ vơ trong tay không có một đồng !
Tôi được giữ lại trong nhà để làm em một anh và bốn chị.
Giai đọan này tôi còn bé nên không biết gì, lại nữa vì thầy bói
nói số của bố tôi chỉ có hai con trai nên vai trò “con trai” của tôi
đã giúp tôi đỡ khổ. Tôi thực sự khổ từ khi biết nhận thức, tức là lúc
6,7 tuổi trở đi.
Khi tôi được 5 tuổi thì bà cả sanh thêm được người con trai nữa,
thế là thầy bói đã nói sai và vai trò “con trai” của tôi không còn cần
thiết, tôi như bị bỏ rơi. Hai người hành hạ tôi nhiều nhất là bà nội
và người chị lớn. Bà nội rất mực yêu thương người con trai mới sanh
sau này của bà cả. Bà nội yên tâm khi có được người cháu trai phòng hờ
để sau này có người cúng giỗ và thờ phượng, chứ một người cháu lớn bà
chưa yên tâm…
Người ta nói đến mẹ, nói đến bà như một kỷ niệm đẹp, nào bà ôm
cháu vào lòng, bà kể chuyện cổ tích cho cháu nghe, mẹ thì xoa lưng
con, hát ù ơ ru con ngủ v.v.. nhưng tôi lại khác, tôi không có được
cái kỷ niệm đó. Bà nội tôi và chị tôi thường hay đánh tôi vào đầu, hai
người này thường dùng tay để “cốc” tôi. Cốc tức là cong ngược 4 ngón
tay lại để chìa ra 4 đốt xương và đập vào đầu. Chỉ những ai đã bị cốc
mới biết được cái đau buốt trong đầu, nhất là đầu của một đứa trẻ mới
6,7 tuổi. Tự điển Nguyễn Văn Khôn định nghiã “cốc” ( knuckle) tức là
đánh một vật gì bằng khớp xương của ngón tay, thực ra phải nói “cốc”
tức là đánh vào đầu bằng khớp xương của ngón tay mới đúng, chứ nếu
đánh vào tay, chân, lưng, bụng thì không đau và cũng không ai nói
“cốc” vào lưng, vào bụng bao giờ. Không những chỉ đánh mà còn chửi,
mang tên mẹ tôi ra để chửi, gọi mẹ tôi là con này, con nọ, mang cả tên
ông ngoại tôi ra chửi, gọi tôi là “ giống thằng cả Thiều ” tức là tên
ông ngoại tôi. Chị tôi có nét mặt thật ác, bố tôi bảo những đứa mà mắt
nó có ve là ác lắm, tôi cũng không biết mắt có ve là mắt thế nào, chỉ
nghe bố tôi nói vậy. Nhưng trái ngược với chị tôi, bà nội tôi ai cũng
khen là bà cụ đẹp lão và phúc hậu, tóc bà bạc trắng hết cả đầu. Mỗi
khi tôi thấy có người khen dù còn bé nhưng tôi cũng lấy làm ngạc
nhiên, bà nội ác với tôi như thế mà họ khen bà phúc hậu kể cũng lạ.
Ngày nay tôi mới hiểu ra là sở dĩ bà nội ghét tôi là để lấy lòng bà
cả. Bà nội tưởng bà cả ghét mẹ tôi tức là ghét tôi nên bà nội muốn mọi
người thấy rằng nay bà nội đứng về phía bà cả và những người con bà
cả. Ngoài tôi ra, bà nội chưa hề đánh hay chửi một người cháu nào bao
giờ. Việc đánh chửi tôi nhiều quá đã khuấy động lương tâm bà cả. Chính
bà cả đã than với nhiều người mà tôi nghe được “Ngày xưa mẹ nó ở nhà
thì bà bênh vực mẹ nó, về phe với mẹ nó, nay mẹ nó đi rồi sao bà lại
ghét nó quá vậy !”. Bà cả chỉ ghen với mẹ tôi nhưng tốt với tôi và
cũng rất thương tôi, có lẽ bà tội nghiệp tôi, tội nghiệp cho một đứa
trẻ cô thế. Tôi không hề oán trách bà về chuyện ghen tuông với mẹ tôi
vì tôi hiểu đó chỉ là sự thường tình giữa hai người đàn bà có chung
một chồng. Tôi vẫn thầm cám ơn bà đã không đối xử tệ với tôi như những
người mẹ ghẻ khác. Trước khi chết bà còn căn dặn người chị kế tôi là
lúc nào cũng phải nóí tôi là con trai của bà. Chỉ nói có thế rồi bà
nhắm mắt. Có thể trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời bà đã có
sự ân hận. Ngày nay tôi vẫn thờ cúng bà như mẹ ruột của tôi đúng như
bà đã mong muốn.
Nỗi khổ thứ hai của tôi là bị chế diễu, trêu chọc bởi những đứa
cùng lớp, cùng tuổi. Chúng gọi tôi là “ thằng không có mẹ ”. Tôi rất
xấu hổ khi có người biết tôi không có mẹ, biết tôi là con người vợ thứ
hai của bố tôi. Đã thế tôi còn bị đặt tên là “Thứ” (là con người vợ
thứ) để khỏi lẫn với con người vợ cả. Cũng vì sợ có người biết và chế
nhạo nên mỗi lần gặp mẹ là tôi sợ run lên. Nhưng mẹ tôi không biết tôi
sợ nên bà hay đón tôi lúc tan trường. Mẹ tôi thường mặc áo nâu, yếm
màu đỏ nhạt, trên đầu chít khăn mỏ quạ, miệng cười rất tươi mỗi khi
gặp tôi. Mẹ tôi từ khi bỏ nhà ra đi , bà buôn bán hàng xén, gánh những
đồ lặt vặt ra chợ bán như cái kim, sợi chỉ để sống qua ngày. Tôi không
biết rõ mẹ ở đâu, hình như vừa ở nhà ông ngoại, vừa ở nhà họ hàng hay
bạn bè gì đó. Tôi sợ bị chế diễu nên tuyệt đối không dám nghĩ tới mẹ
và cũng không dám nói chuyện với ai về mẹ. Mỗi khi đi học về gặp mẹ là
tôi chạy trốn để khỏi phải ở bên bà. Tôi chưa kịp trông thấy mẹ thì
mấy đứa trẻ cùng lớp đã gọi “Thứ kìa, bu của Thứ kìa !” thế là tôi
lại phải một phen sợ hãi. Có lần đi ngược chiều với mẹ, tôi không thể
chạy thoát được. Mẹ tôi nắm tay tôi và nói: “Thứ lại đây vơí bu, con
của bu ngoan, bu thương con…” Tôi giật tay ra khỏi mẹ và hét: “Bỏ
tay người ta ra, bỏ ra ! bỏ ra !” rồi tôi vụt chạy. Cũng có lần mẹ
nắm được tay tôi lâu hơn và bỏ tiền vào túi tôi. Hôm ấy về nhà, bị bà
chị lớn vặn hỏi, tôi sợ quá vất tiền vào gầm giường và thầm trách sao
mẹ tôi lại cho tiền để tôi bị mắng. Tuy sợ hãi như vậy nhưng tôi lúc
nào cũng mong mẹ tôi về với tôi, để tôi có mẹ ở bên như những đứa trẻ
khác, tôi sẽ không bị mấy đứa trẻ chê cười là “thằng không có mẹ”
nữa. Sự khao khát có mẹ không phải chỉ trong lúc còn bé mà ngay cả khi
tôi trưởng thành. Tôi nhớ lúc đã là sinh viên ban Cao học, tôi quen
một cô nữ sinh Trưng Vương, tôi với nàng tình cảm chưa có gì đậm đà
nhưng tôi quý bà mẹ của nàng, bà rất dịu dàng, ôn tồn, bà bảo tôi: “
cháu uống ly nước chanh cho mát ”, “ cháu uống ly nước trà cho ấm ”
mỗi khi trời trở lạnh hoặc “ cháu đợi một lát em ra bây giờ … ”. Bà
ngồi bên tôi, nụ cười của bà thật hiền hậu, bà hỏi han tôi những câu
chân tình mà trong đời tôi chưa bao giờ có ai hỏi tôi như vậy. Mỗi lần
đến chơi tôi mong được gặp bà, được nói chuyện với bà hơn là gặp người
con gái út của bà. Ngày nay mỗi khi tôi nghe ai nói đến mẹ hiền là tôi
liên tưởng tới bà. Tôi cũng hay đi chơi với người con trai thứ hai
của cô tôi. Cô tôi thương con trai rất mực, mỗi khi bọn tôi đi chơi
về khuya cô tôi nhẹ nhàng trách con “ Sao con đi chơi về khuya quá
vậy? ” hoặc “ Con nhớ về sớm không rồi lại ho ”. Con trai cô muốn
được tự do, không muốn bị gò bó, nhưng ngược lại tôi thèm có được
người mẹ săn sóc như vậy mà tôi không có. Tôi đã đọc nhiều lần cuốn
Bông Hồng Cài Áo. Mỗi lần đọc càng khiến tôi thêm buồn, thêm tủi cho
một người con có mẹ mà không được ở bên, có mẹ mà không dám nhận mẹ
mình là mẹ.
Tôi sống trong sự khiếp sợ mọi người trong gia đình. Bản năng tự
vệ của một đứa trẻ trong tôi thúc đẩy tôi phải thật ngoan, thật lễ
phép cho tôi bớt bị hành hạ. Tôi nghĩ rất đơn giản là mẹ tôi bị mọi
người trong nhà ghét, tôi cần phải từ khước mẹ thì tôi mới là đứa trẻ
ngoan, đứa trẻ có hiếu trong gia đình. Nhưng mấy người thợ làm cho
nhà tôi, họ không biết lại chửi tôi là đứa con bất hiếu, tệ bac, không
nhìn nhận mẹ đẻ ra mình. Lúc đó tôi không hiểu và lấy làm lạ tại sao
tôi là đứa trẻ ngoan ngoãn, không bao giờ dám cãi lại ai trong gia
đình mà họ lại chửi tôi là đứa con bất hiếu. Tôi nghe người nhà nói mẹ
tôi tranh để làm vợ cả không được nên bỏ nhà ra đi. Như vậy là mẹ tôi
bỏ tôi, chứ tôi đâu có bỏ mẹ, còn tôi đến gần mẹ thì tôi bị chế diễu,
chê cười và nhất là sợ người nhà, tôi đâu có làm gì khác hơn được… Sự
ngoan ngoãn, sợ sệt của tôi chỉ được lòng bà cả và người anh lớn, còn
đối với bà nội và người chị thì không lay chuyển được. Có lần chị lớn
đánh tôi đau quá cũng động lòng bố tôi. Bố tôi không có một sự ngăn
cản nào nhưng rủ tôi ra ngoài ruộng xem mấy người nông dân gặt lúa cho
nhà tôi. Gió đồng thổi nhẹ làm lay động những bông lúa vàng tạo nên âm
thanh êm dịu và bay lên mùi thơm của lúa mới. Tôi cảm thấy thật thoải
mái, tôi chạy nhẩy tung tăng đi bắt những con cào cào, châu chấu và đã
quên đi cái đau do chị tôi đánh lúc ban trưa. Nhưng tối về tôi bị
người chị chửi một trận: “ Chỉ có một mình bố bênh mày, còn mọi người
ghét mày, bố không làm gì được đâu ! ”. Gần đây tôi có đọc một truyện
ngắn của một tác giả vô danh, đại ý câu chuyện nói về tâm sự của một
người con có mẹ mù một mắt. Đứa trẻ bị bạn bè chế nhạo và gọi là “
cái thằng có mẹ một mắt ” nên rất xấu hổ khi đi với mẹ, không muốn ai
biết về mẹ mình, không dám nhận mẹ mình là mẹ. Tôi hiểu được tâm trạng
của tác giả lúc đó, tâm trạng của một đứa trẻ như tôi, nhưng tôi không
hiểu được khi tác giả của câu chuyện này lúc đã trưởng thành, đã có
vợ con, mẹ từ nơi xa sang tận Singapore để thăm mà còn sợ bị vợ con
chê cười để xua đuổi mẹ vì mẹ có một mắt. Điểm cảm động nhất của câu
chuyện là sở dĩ mẹ có một mắt vì lúc còn nhỏ con bị tai nạn và hỏng
một bên mắt người mẹ đã hy sinh để bác sĩ lấy mắt mình thay cho con
nên mẹ chỉ còn một mắt. Khi người con biết được việc này thì mẹ đã
chết… Đọc xong chuyện tôi thấy bàng hoàng và gần gũi với tác giả.
Nhưng tôi cầu mong đây không phải là chuyện thật, nếu có thật thì chỉ
thật ở phần trên chứ không thể thật ở phần dưới, tức là phần người con
đã trưởng thành, đã có đầy đủ lý trí mà còn trốn chạy mẹ, hất hủi mẹ
thì không chấp nhận được.
Cuộc di cư năm 1954 xẩy ra, bố tôi vào Nam, tôi được cho đi theo
để sau này săn sóc bố. Gia đình tôi ở miền quê, một vùng trước kia đã
từng là nơi kháng chiến nên sự ra đi rất khó khăn, phải đi thành từng
nhóm nhỏ. Bố tôi đi trước, tôi đi sau và giữ khoảng cách khá xa để
không ai biết. Tôi phải gỉa làm đứa trẻ đi câu, chân đi đất, quần xắn
đến đầu gối và đi tắt qua những cánh đồng lúa. Hai bố con đi bộ từ
sáng sớm đến tối và nằm ở dưới thuyền bến đò Khuể chờ gần nửa đêm
người lái đò mới dám chở sang đất Kiến An. Sang được Kiến An rồi bố
con tôi không biết ở đâu cho hết đêm. Ban đầu chúng tôi định ngồi ở
gốc cây đa bên đường đợi sáng về sau nghĩ lại thấy tình trạng an ninh
có vẻ nguy hiểm nếu ngồi đó nên đã cố gắng đi tìm một nơi khác trú ngụ
cho an toàn hơn. Sao may đi được chừng nửa giờ thì gặp một ngôi chùa.
Chúng tôi vào xin tạm trú, mới đầu sư bà rất ngại vì là chùa nữ và đã
quá khuya nhưng lòng từ bi đối với khách lỡ độ đường nên đã thuận cho
chúng tôi ở tạm nơi gác chuông bên ngoài chứ không cho vào trong chùa.
Sư bà sai người mang nước uống và cho mượn chăn đắp. Tôi nghe tiếng
cầu kinh và tiếng gõ mõ nho nhỏ biết là sư bà đã thức suốt đêm hôm đó
như để cầu nguyện và canh chừng khách lạ. Sáng sớm hôm sau bố con tôi
cám ơn sư bà rồi đáp xe đò đi Hải Phòng và ở trại tạm trú Lạch Chay,
nơi đây cũng có rất nhiều gia đình trú ngụ để đợi chuyến tàu vào Nam.
Khoảng hơn một tuần lễ hai bố con tôi xuống được tàu vào Sài Gòn.
Giai đoạn này thật là đen tối vì gia đình tôi ra đi với hai bàn tay
trắng, mọi tài sản phải bỏ lại hết. Người chị lớn và bà nội bị kẹt lại
ngoài Bắc không vào Nam được. Tôi được người cô, chị ruột của bố tôi ở
Sài Gòn nuôi hai năm cho đi học. Cũng tại đây, cô tôi đã cho tôi biết
sự thật về mẹ tôi, khác hẳn với những tin tức trước kia mà gia đình
nói sai về bà.
Tôi ý thức được và đã ngẩng đầu lên nhìn nhận mẹ đẻ ra mình chứ
không như trước nữa, nhưng không có cách nào để gặp mẹ. Khi tôi vào
Nam rồi mẹ tôi vì nhớ con, đã đi khắp nơi dò hỏi, mãi sau mới biết
được địa chỉ của tôi tại Saì Gòn do con trai lớn của cô tôi ở lại Hà
Nội cung cấp nên đã viết bưu thiếp cho tôi. Bưu thiếp là một miếng bìa
cứng to bằng nửa trang giấy học trò theo điều kiện của Ủy Hội Quốc Tế
Kiểm Soát Đình Chiến chứ không được viết thư có phong bì dán kín để
cho hai bên dễ kiểm soát. Đại ý mẹ tôi hỏi thăm tôi và mong tôi học
giỏi, khỏe mạnh v. v. . Tôi rất cảm động về tấm lòng rộng lượng của mẹ
vì đã nhiều lần tôi chạy trốn mà mẹ không bỏ rơi tôi, vẫn tìm tôi và
vẫn muốn đến gần tôi. Lòng mẹ thật bao la như người ta đã nói. Tôi
viết hồi âm cho mẹ, lần đầu tiên tôi được gọi mẹ tôi là mẹ, xưng con,
và an ủi mẹ tôi là vì chế độ phong kiến, lạc hậu nên hai mẹ con phải
xa nhau và hứa với mẹ là sẽ chăm học rồi ký tên: “ Thứ, con trai của
mẹ bên này vĩ tuyến”. Viết xong nước mắt tôi tự nhiên chảy ra, nếu có
mẹ ở bên chắc tôi đã gục đầu vào lòng mẹ để khóc thật to cho vơi đi
nỗi buồn bao năm tôi phải ôm giữ. Sau này tôi được biết khi nhận được
tin, mẹ tôi mừng lắm và mang tờ bưu thiếp đi khoe với mọi người là tôi
không còn trốn chạy mẹ tôi. Mẹ con tôi đã nhận nhau, hiểu nhau và
thương nhau tuy không còn cơ hội gần nhau nữa…
Cuộc chiến mỗi ngày một khốc liệt, thư từ Nam-Bắc bị gián đoạn,
tôi không sao liên lạc được với mẹ tôi thêm một lần nào nữa kể từ đấy.
Rồi vận nước nổi trôi, tôi sang được Hoa Kỳ. Sau một thời gian
đời sống nơi đây đã tạm ổn định, đường bưu điện giữa hai quốc gia Mỹ
và Việt Nam được thiết lập, tôi cố gắng liên lạc về Sài Gòn để nhờ
tìm mẹ. Tiếc thay, tôi được tin mẹ tôi đã qua đời từ lâu tại vùng quê
xứ Bắc. Mẹ tôi chết trong cô đơn, mang theo xuống huyệt lạnh tất cả
nỗi buồn khổ của một người đàn bà không chồng, không con bên cạnh…
Hôm nay là ngày giỗ mẹ, tôi viết những dòng này là tâm sự của
một người con suốt đời không có mẹ ở bên và thành kính dâng lên hương
hồn mẹ như một nén nhang thắp muộn.
Cám ơn mẹ đã gửi bưu thiếp cho con để trong đời con được một lần
gọi “ Mẹ ”.
Hoàng Nguyên Linh
_____________________
Trích trong tập truyên “Mẹ Và Những Mùa Xuân” của
Hoàng Nguyên Linh
Hoa Huỳnh chuyển
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)
Tạp Ghi và Phiếm Luận : Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ Ăn x ổi ở th ì,...
-
CON MỂN VÀ ĐIỀM BÁO KHÔNG MAY MẮN Con thú rừng có tên “ Mển ” hay“ Mang” , còn gọi là hoẵng , kỉ , là mộ...
-
Năm nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực kh...
-
Bối cảnh lịch sử: Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồ...
Người mẹ nào cũng rất tuyệt vời
Trả lờiXóa