THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 88 :
QUY, QUYỀN, QUYỂN, QUỲNH
Chữ QUY 歸 là VỀ, là THEO VỀ; thuộc dạng chữ Hội Ý trong CHỮ NHO... DỄ HỌC, có diễn tiến chữ viết như sau :
Ta thấy :
Chữ QUY 歸 gồm có : Bên trái phía trên
là bộ Phụ 阜 : là làng xóm chợ búa dựa
theo ven sông. Phía dưới là chữ Chỉ 止 :
là dừng lại. Bên phải là chữ Trửu 帚 :
là cây chổi. Hàm ý là... Người du tử ngày
xưa khi dừng chân trên một làng mạc ven sông nào đó, chợt thấy người đàn bà cầm
cây chổi quét nhà , mà chạnh lòng muốn quay trở lại quê nhà, như nhà thơ Thế Lữ
đã viết trong bài thơ "Giây Phút Chạnh Lòng" ....
Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
Chiều thu se lạnh gió heo may.
Dừng chân trên bến sông xa vắng,
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây !
nên...
Chữ
QUY 歸 có nghĩa VỀ là vậy. Như :
- QUY GIA 歸家 : là Về nhà. QUY CỐ HƯƠNG 歸故鄉 : là Về quê cũ.
- VU
QUY 于歸 : là về nhà chồng. Lúc đến để mua Thúy Kiều, sau khi đã "...ngã giá vàng ngoài bốn trăm" rồi thì Mã Giám Sinh mới :
Định ngày nạp thái VU QUY,
Tiền nong đã có việc gì chẳng xong !
- QUY NINH 歸寧 : là Gái có chồng về nhà thăm cha mẹ ruột, gọi là QUY NINH. Khi Thúc Sinh vừa lên đường về Lâm Truy với Thúy Kiều thì Hoạn Thư cũng đi về nhà " mét má " :
Gió câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường QUY NINH.
Thưa nhà huyên hết sự tình,
Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen...
- TỪ QUY 辭歸 : là Từ biệt quy khứ 辭別歸去, có nghĩa là : Từ biệt để đi về. Trong Truyện Kiều, sau khi chứng kiến Thúy Kiều báo ân báo oán xong xuôi rồi, thì đối với :
Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác Duyên vội vã gởi lời TỪ QUY...
- QUY PHỤC 歸服, QUY THUẬN 歸順 : đều có nghĩa là Ngoan
ngoãn mà về theo ai đó.... Còn....
Chữ QUY có Bộ Bạch 白, bên kia là Chữ Phản 反: là Ngược lại, QUY 皈 nầy là một dị bản, một cách viết khác của chữ QUY 歸 nêu trên, nếu chiết
tự thì có nghĩa : Đang trong chỗ tối, đi
ngược lại để trở về với chỗ sáng, đặc biệt là chữ QUY 皈 nầy CHỈ DÙNG TRONG KINH PHẬT chứ không được dùng
rộng rãi như chữ QUY 歸 nêu trên. Ta có từ :
- QUY Y 皈依 : là Về để nương tựa
theo, là Dốc lòng về với .... Hiểu rộng ra là Bỏ chỗ tối về với chỗ sáng, Bỏ
nơi mê muội mà về nơi bến giác, Vượt qua bể khổ để đến với niết bàn... Ta thường gặp nhóm từ mà cũng là thành ngữ :
* QUY Y TAM bảO 皈依三寶 : tức là " Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng 歸依佛,歸依法,歸依僧". Đây là những từ
chuyên dùng của đạo Phật, mà đã là từ chuyên dùng của Phật giáo thì phải tìm hiểu nguồn gốc của các từ nầy trong
kinh Phật bằng tiếng PHẠN, chữ Hán cổ chẳng qua cũng là văn tự dùng để dịch
kinh Phật mà thôi. Ví dụ : Nước ITALI, người Hoa nhại bằng âm Quan Thoại là 意大利, ta dịch lại âm nhại của người Hoa là Ý Đại Lợi, rồi gọi tắt là nước Ý, nên ITALI và Ý Đại Lợi
về mặt ý nghĩa không có ăn nhằm gì với nhau cả, chỉ là nhại âm cho có tên để gọi
mà thôi. Tương tự, ta có CANADA 加拿大 là Gia Nã Đại, AMERICA 亞美利加 là Á Mỹ Lợi Gia, là nước Mỹ...v.v....
Sự thật, TAM QUY Y tiếng Phạn là " Tisarana
", " Ti " là Tam, và " sarana " là Nơi Phù hộ che chở,
ý muốn nói là do Phật Pháp Tăng ba ngôi hình thành nơi che chở phù hộ cho những
ai theo về. Trong chương thứ 14 của kinh " A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận 阿毘達磨俱舍論"
thì giải thích... QUY Y là " Saranam gacchami
". Gacchami là động từ chỉ sự thẳng tiến, đến nơi, và Saranam là Danh từ
chỉ sự che chở phù hộ. Như vậy, thì QUY Y là " Thẳng tiến đến nơi mà
ta sẽ được sự che chở và phù hộ ", nói cách khác là " Về với Phật Pháp
Tăng để hưởng được sự phù hộ và che chở ". Cũng theo Kinh trên,
Saranam gacchami còn có nghĩa Cứu tế và Nương tựa, nên mới được các nhà dịch
thuât Trung Hoa dịch là QUY Y 歸依, có nghĩa là "Tìm về để nương tựa".
Đưa nàng đến trước Phật đường,
TAM QUY, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
Còn trong sử thi "Thiên Nam Ngữ Lục" thì QUY Y có nghĩa là "Đi Tu" :
Sa môn thế phát QUY Y,
Về trong ẩn họa ai thì kẻ hay ?
QUY 龜 còn là con Rùa. Người xưa cho rằng loài rùa có tuổi thọ
trên một ngàn năm, nên dùng từ QUY LINH 龜齡 là "Tuổi của con rùa" để chỉ
tuổi thọ và sống lâu, như trong thơ của Chiêu Lỳ Phạm Thái :
Đã ngoài sáu dật QUY LINH,
Phương đông lại rạng tiểu tinh một nàng.
Ngoài việc sống dai, Rùa còn được cho là có tính đa dâm, gọi là QUY
DÂM là "Dâm dục như loài rùa". Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Trinh
Thử, khi Chuột Bạch khuyên Chuột Đực có câu :
QUY DÂM ghi lại còn gương,
Tụng kinh giới sắc sao chàng chẳng răn ?
Còn từ...
QUYỀN 權, ngoài nghĩa QUYỀN UY 權威 ra, còn có nghĩa là QUYỀN BIẾN
權變. QUYỀN BIẾN tức là biết linh động để ứng phó những tình huống thay
đổi trước mắt, chớ không hành sự cứng ngắt. Có nghĩa là phải biết tùy cơ
mà ứng biến. NGỘ BIẾN 遇變 phải biết TÒNG QUYỀN 從權, như khi gặp cơn gia biến nên Thúy Kiều mới quyết định bán mình để chuộc tội cho cha và em trai, để...
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong khi NGỘ BIẾN TÒNG QUYỀN biết sao?
Khác với KINH 經 là KINH THƯỜNG 經常 là những nguyên tắc mẫu mực
theo lẽ thường tình. Nên CHẤP KINH 執經 là giữ nguyên tác một cách cứng
ngắt, không biết linh động. Ví dụ : như lễ tiết của Nho gia là "Nam nữ
Thọ thọ bất thân 男女授受不親", có nghĩa : Con trai con gái đưa và nhận không
được chạm vào tay nhau (Sợ sẽ phát sinh dục niệm); Nhưng
khi thấy cô gái nào đó té xuống sông sắp chết đuối thì vẫn phải nhảy
xuống cứu vớt và ôm cô ta lên như thường, chớ không lẽ nói không dám
chạm vào người rồi để cho cô ta chết đuối hay sao?! Sự linh động đó gọi
là "Biết KINH Biết QUYỀN", nói cho gọn là KINH QUYỀN, như trong truyện
thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài có câu :
Ruột tằm bối rối nào yên,
Bồi hồi chưa định KINH QUYỀN làm sao ?!
Cũng có thể nói thành QUYỀN KINH, như khi Kim Trọng phân bua với
Thúy Kiều về "chữ Trinh" của người phụ nữ khi Kim Kiều tái hợp :
Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
Có khi BIẾN có khi THƯỜNG,
Có QUYỀN nào phải một đường CHẤP KINH.
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay ?
Về
thành ngữ "QUYỂN THỔ TRÙNG LAI 卷土重來" có nghĩa là : Cuốn đất mà trở lại
(với khí thế mới mẻ và mạnh bạo hơn) như ý của bài thơ thất ngôn tứ
tuyệt "Đề Ô Giang Đình 題烏江亭" của Đỗ Mục đời Đường khi đến bến Ô Giang
nơi mà Hạng Võ Sở Bá Vương đã tự sát :
勝敗兵家事不期, Thắng bại binh gia sự bất kỳ,
包羞忍恥是男兒. Bao tu nhẫn sĩ thị nam nhi.
江東子弟多才俊, Giang Đông tử đệ đa tài tuấn,
捲土重來未可知。 Quyển thổ trùng lai vị khả tri !
Có nghĩa :
Thắng bại chuyện binh ai biết trước ,
Làm trai nhịn nhục cứ dửng dưng.
Giang Đông tuấn kiệt còn đầy rẫy,
Cuốn đất làm nên chửa biết chừng !
Ý của Đỗ Mục là : Nếu như Hạng Võ cố chịu nhục mà về Giang Đông
chiêu mộ thêm anh tài còn đầy rẫy nơi đó mà phất cờ đánh lại Lưu Bang,
thì chưa biết chừng đã làm nên cơ nghiệp lớn ! Trong văn học cổ thường
dùng thành ngữ nầy để ngụ ý khôi phục lại, chấn hưng lại việc đã hỏng,
đã thất bại; như trong bài "Phú Thi Hỏng Năm Canh Tý" của Trần Tế Xương
có câu :
Nghĩ đến chữ "lương nhân đắc ý", thêm nỗi thẹn thùng,
Ngẫm đến câu "quyển thổ trùng lai", nói ra ngập ngọng.
Trong văn học cổ, hễ nhắc đến chữ QUỲNH là người ta nghĩ ngay đến QUỲNH DAO 瓊瑤, QUỲNH TƯƠNG 瓊漿.
- QUỲNH DAO 瓊瑤 là một loại đá qúy, được tôn xưng là ngọc Quỳnh ngọc
Dao, có cành nhánh như là một loại san hô trên cạn, mà cụ Nguyễn Du đã
dùng để tả cái dáng vẻ trong sáng thanh thoát của Kim Trọng :
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây QUỲNH cành DAO.
Còn trong truyện thơ Nôm "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" cũng có câu :
Hoa tưới long lanh rèm bích ngọc,
Hương đưa sực nức gác QUỲNH DAO.
- QUỲNH TƯƠNG 瓊漿 là thứ dung dịch được chế tác bằng ngọc Quỳnh; đúng
hơn là một loại rượu có màu sắc lóng lánh như ngọc, được ngâm ủ bằng các
loại trái cây qua qủa, như rượu cocktail của ta ngày nay vậy; Nhưng
ngày xưa đó là rượu quý của tiên uống và theo truyền thuyết Trung Hoa
người thường uống vào có thể thành tiên được. Lần đầu tiên trong đêm hẹn
ước Thúy Kiều và Kim Trọng đã uống loại rượu nầy :
Chén hà sánh giọng QUỲNH TƯƠNG,
Giải là hương lôn, bình gương bóng lồng !
Thiếu chút nữa thì cả hai đều "lên tiên" cả rồi ! Nhưng rồi mười lăm năm sau, khi Kim Kiều tái hợp, ta thấy lại cảnh :
Thoắt thôi tay lại cầm tay,
Càng yêu vì nết càng say vì tình.
Thêm nến giá, nối hương bình,
Cùng nhau lại chuốc chén QUỲNH giao hoan.
Mong
rằng tất cả những người hữu tình trong thiên hạ kết cuộc đều được vui vẻ
đoàn tụ viên mãn như là Kim Trọng và Thúy Kiều vậy. Mong lắm thay !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa