Tại sao ngày mùng 9 tháng 9 nông lịch gọi là tết Trùng cửu; ngày 10 tháng 10 dương lich là ngày Lễ Quốc khánh Trung Hoa Dân Quốc /Taiwan gọi là ngày Song thập?
* Theo ChatGTP
Hỏi :
1. Ngày 9 tháng 9 gọi là Trùng Cửu. Vậy thì tại sao ngày 10 tháng 10
được gọi là Song Thập , không được gọi là Trùng Thập ? 2. Ngày 7 tháng 7
thì được gọi là Song Thất .
Trả lời:
Ngày 9 tháng 9
được gọi là Trùng Cửu vì trong tiếng Trung, số "9" phát âm giống như từ
"Cửu" nên có sự tương quan âm thanh. Tương tự, ngày 10 tháng 10 được
gọi là "Song Thập" vì số "10" phát âm giống như từ "Thập". Trong truyền
thống ngôn ngữ của nhiều người Á Đông, việc này thường được thực hiện để
tạo ra sự tương quan âm thanh và ý nghĩa tích cực.
Tuy nhiên,
không có quy tắc cứng nhắc về việc gọi ngày 10 tháng 10 là Song Thập
thay vì Trùng Thập. Có thể có nhiều cách gọi khác nhau dựa trên văn hóa
cụ thể và khu vực. Một số người cũng có thể gọi ngày này là Trùng Thập
nếu họ thích.
Ngày 7 tháng 7 được gọi là Song Thất có thể xuất
phát từ việc số "7" phát âm giống như từ "Thất" trong tiếng Trung. Tương
tự như trường hợp của ngày 9 tháng 9 và ngày 10 tháng 10, việc đặt tên
theo âm thanh của số là một phần của truyền thống văn hóa trong một số
nền.
**1)- Góp thêm ý kiến :
Kính thưa quý anh chị!
Xin mạn phép góp chút ý kiến để mua vui trong ngày tết Trùng Cửu, đúng sai không quan trọng.
Gọi ngày 9/9 âm lịch là Trùng Cửu (重九)
vì cả ngày 9 và tháng 9 đều là ngày dương; số 9 là một cơ số, cơ số là
một số dương trong Tiên Thiên Bát Quái Hà Đồ, số 9 là số chiếm vị trí
quẻ Ly ở phương Nam trong Cửu Cung Bát Quái (ma phương, gồm 9 ô cộng
ngang dọc, chéo đều bằng 15). Quẻ Ly thuộc hành Hoả, là một quẻ dương.
Tết Trùng Cửu còn gọi là tết Trung Dương (重陽) là vì thế.
Cái
thể của quẻ Ly tuy 2 dương trên dưới kẹp 1 âm ở giữa nhưng lại là quẻ
âm. Sở dĩ người ta nói hành hoả ở phương Nam thuộc dương là chú trọng về
cái dụng của quẻ Ly, âm thì dùng cho dương cũng như cái dụng của Khôn
là Kiền, cái dụng của Thuỷ là Hoả và ngược lại. Quẻ Ly có 2 hào dương
cách nhau bởi 1 hào âm nên trùng dương cũng là vì lẽ đó.
'Trùng'
theo nghĩa chữ Hán có nhiều nghĩa tuỳ theo vai trò và từ loại của nó
nằm trong văn phong (context) của câu. Ở đây, 'trùng' có thể được hiểu
như một lượng từ (danh từ chỉ số lượng) có nghĩa là sự chồng chất lên,
mang nghĩa lũy tích, trùng cửu vì thế là sự lặp lại của số 9 trong ngày
9/9. Trùng Dương là sự lặp lại của dương. Còn nếu coi 'trùng' ở đây là
một động từ thì nó có nghĩa là thêm vào, nếu xem như là một trạng từ thì
có có nghĩa là sự lập lại, tái diễn. Cho nên dù được hiểu theo loại từ
nào thì 'trùng' ở đây đều có nghĩa là nhiều hơn 1 lần. Trùng Dương còn
được gọi là Trùng Cửu vì lấy ngày 9/9 âm lịch làm ngày lễ tết này. Ngoài
ra, cửu (九) có một chữ đồng âm khác nghĩa (homonym) là chữ 久,
có nghĩa là lâu dài. Tết Trùng Dương người xưa bên Trung Hoa uống trà
hoa cúc vì đó là mùa hoa Cúc (Xuân Lan Thu Cúc mặn mà cả hai - Kiều), đó
là ngày kính lão (sống lâu, trường thọ trong nghĩa chữ 久, ngày tế tổ (như là linh hồn tổ tiên phục dương thế).
Ngày
Song Thập là ngày quốc khánh của nước Trung Hoa Dân Quốc được thành lập
từ sau ngày khởi nghĩa Vũ Xương (thuộc Vũ Hán, Hồ Bắc, TQ ngày nay) mở
đầu cho sự thành công của cuộc cách mạng Tân Hợi (10/10/1911), nay vẫn
còn tồn tại ở Đài Loan. Gọi là Song Thập vì ngày 10 tháng 10 có 2 số 10.
Ngày 7/7 âm lịch được gọi là ngày song thất cũng một phần vì ngày đó có 2 số 7. Ngày Song Thất là tên khác của tết Thất Tịch (七夕). Ít thấy chữ người ta nói đến ngày Song Thất. Ngày Thất Tịch được nói đến trong sách Thành Ngữ Khảo (成語考) như là ngày hai chòm sao Ngạn Tinh (彥星宿) tức Ngưu Lang và chòm sao Chức Cơ (織姬宿) tức Chức Nữ được hội ngộ mỗi năm 1 lần tại cầu Ô Thước (烏鵲) vào đêm 7/7 âm lịch. Nguyên văn trong Thành Ngữ Khảo:參商二星,其出沒不相見;牛女兩宿,惟七夕一相逢. ('Tham
Thương nhị tinh, kỳ xuất một bất tương kiến; Ngưu Nữ nhị túc, duy thất
tịch nhất tương phùng'; nghĩa là sao Hôm và sao Mai ra vào không bao giờ
thấy nhau, chòm Ngư Lang và chòm Chức Nữ chỉ mỗi năm đêm 7/7 mới gặp 1
lần). Ngày 7/7 âm lịch sau này được nhiều người trong bàng dân thiên hạ
xem như ngày lễ tình nhân.
Theo
em thì gọi là 'trùng' hay 'song' thì tuỳ theo ý nghĩa đặc thù của từng
ngày lễ. Tuy cả 2 đều là danh từ chỉ số lượng, trùng mang nghĩa tích
luỹ, lăp lại trong khi song có nghĩa là hai về số lượng. Ngoài ra,
lưỡng, nhị, đôi, cặp cũng có nghĩa tương tự như 'song' nhưng không có
nghĩa 'trùng'.
Nhân
ngày Trùng Cửu, em xin gửi tặng quý anh chị 2 bài thơ của Lý Bạch một
bài cho ngày Trùng Dương và bài kia cho 1 ngày sau Trùng Dương. Đối với
tửu thi nhân như Lý Bạch thì dù ngày 9 hay ngày 10 gì cũng là Trùng
Dương vì ngày nào cũng 'bảo con con đem ngựa tốt, áo quý ra đổi lấy rượu
cùng bạn uống tiêu cái sầu vạn cổ:
'五花馬,千金裘。
呼兒將出換美酒,與爾同銷萬古愁。' 將進酒 - 李白
(Ngũ hoa mã, thiên kim cầu.
Hô
nhi tương xuất hoán mỹ tửu, dĩ nhữ đồng tiêu vạn cổ sầu) Tương tiến tửu
- Lý Bạch. Sau đây là 2 bài thơ mà em thường gọi đùa là 'trùng cửu' và
'trùng trùng cửu'.
九日龍山飲
九日龍山飲,黃花笑逐臣。
醉看風落帽,舞愛月留人。
Cửu nhật long sơn ẩm
Cửu nhật long sơn ẩm,
hoàng hoa tiếu trục thần.
Tuý khán phong lạc mạo,
vũ ái nguyệt lưu nhân.
Tạm dịch: Trùng cửu uống rượu trên núi Long Sơn.
Trùng Cửu say trên núi,
Cúc cười người bị đuổi.
Gió tung nón người say,
Cùng ánh trăng múa may. 九月十日即事
昨日登高罷,
今朝更舉觴。
菊花何太苦,遭此兩重陽?Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Tạc nhật đăng cao bãi,
kim triêu canh cử trường.
Cúc hoa hà thái khổ,
tao thử lưỡng trùng dương?
Tạm dịch:
Ngày sau Trùng Cửu
Hôm qua say trên cao,
Sáng nay lại nâng chén.
Hoa Cúc sao mà khổ!
Trùng Trùng Dương là sao?Lày A Mản
2)- Trùng và Song (重與雙)
Xin
góp ý thêm về câu hỏi : "Khi nào gọi là Song , khi nào gọi là Trùng ?"
với tình thần dĩ văn hội hữu (以文會友), để nhóm bạn bằng ngôn tự và lời
văn.
Theo sự hiểu biết thiển cận của tôi, Trùng (重) và Song (雙) đôi khi có thể sử dụng lẫn nhau vì có nghĩa là trùng lắp, lặp lại:
Tết
Trùng Thập (mùng 10 tháng 10 âm lịch) còn gọi là Tết Song Thập
(Hán-Nôm: 雙十) là ngày của các vị thầy thuốc thời xưa. Vào tháng 10,
những cây thuốc hấp thụ được khí âm dương của trời đất, kết tụ được sắc
thái của tứ thời (Xuân, Hạ, Thu, Đông) mà trở nên có linh khí. Tháng 10
cũng là mùa màng thu hoạch tốt nhất trong năm, người ta thường làm nhiều
món ăn thật phong phú để cúng bái và tạ ơn đất trời sau một mùa gặt hái
nhiều thành quả tốt đẹp.
Tết
Song Thất (ngày 7 tháng 7 âm lịch) còn được gọi là Trùng Thất tức là
Thất Tịch (Hán-Nôm: 七夕). Lịch sử ngày này gắn bó với câu chuyện Ngưu
Lang Chức Nữ hoặc vợ chồng Ngâu với nhiều dị bản. Theo truyền thuyết,
sau một năm xa cách, hằng năm cứ đến ngày này , Ngưu Lang và Chức Nữ
được hội ngộ bên cầu Ô Thước.
Tết
Trùng Ngũ (ngày 5 tháng 5 âm lịch) còn được gọi là Tết Song Ngũ tức là
Tết Đoan Ngọ (Hán-Nôm: 瑞午節) là ngày người dân tưởng nhớ vị trung thần
yêu nước tên là Khuất Nguyên. Vì bị gian thần gièm pha hãm hại, ông đã
uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5. Dân làng
vô cùng thương xót, họ đã chèo thuyền đến giữa dòng sông để cố gắng cứu
vớt nhưng không thành. Sau để tưởng nhớ và tỏ lòng thương tiếc một vị
thần trung nghĩa. Vào ngày này hàng năm, dân chúng làm bánh Ú, bên ngoài
quấn chỉ ngũ sắc (ý làm cho cá hoảng sợ, không lại gần phá hoại thi thể
của ông), rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống để tế bái Khuất
Nguyên.
Mặt khác, vì đặc trưng và thói quen của nền văn hóa, có những từ ngữ bắt buộc phải dùng "Trùng":
重重叠叠的山巒 (ngọn núi chồng chất lên nhau) Trùng trùng điệp điệp đích sơn loan, ngọn núi trùng trùng điệp điệp, không nói ngọn núi song song điệp điệp.
福不重來 (phước không đến 2 lần), phước bất trùng lai, không nói phước bất song lai.
Hoặc có những từ ngữ bắt buộc phải dùng "Song"
福慧雙修 (Tu phước tu tuệ) phước tuệ song tu, không nói phước tuệ trùng tu.
雙飛燕 (hai con chim én bay kề vai sánh cánh) song phi yến, không nói trùng phi yến.
Tiện
đây, xin mạn phép lược thuật một chút cảm nghĩ về "chữ và nghĩa". Con
người vốn lệ thuộc chữ nghĩa quá nhiều, tưởng chừng như ngoài chữ nghĩa
là không còn gì nữa! Thực ra, ngôn tự (言字) tức lời nói và chữ viết chỉ
là thông tin quy ước dùng làm phương tiện diễn đạt ý. Các trí giả xưa
không bám chặt vào ngôn tự và phương pháp, bởi vì mục đích chính không
nằm trong đó, chúng chỉ là những phương tiện nhất thời nhằm hướng dẫn
đến hình và sắc của sự vật bên ngoài mà thôi. Hơn nữa, trong hầu hết các
ngôn ngữ trên thế giới, khá phổ biến hiện tượng đồng tự khác nghĩa,
thậm chí có nghĩa tương phản. chẳng hạn:
“Quân”(君)
nghĩa là vua và “quân”(軍)nghĩa là lính. Vua và lính rõ ràng là hai vị
thế xã hội, hai cấp bậc tương phản một trời một vực. Vua thì ở ngôi cao
nhất còn lính là vị trí có thể nói gần như dưới cùng.
"Phụ” (父) chỉ đàn ông và “Phụ”(婦) chỉ đàn bà.
Chữ
“phụ” với nghĩa chỉ đàn ông được sử dụng điển hình qua trường hợp chỉ
người cha như: thân phụ, dưỡng phụ; chữ “phụ” với nghĩa chỉ đàn bà xuất
hiện điển hình qua các từ như: phụ nữ, thiếu phụ, chinh phụ...Sự khác
biệt tương phản giữa “phụ” (chỉ đàn ông) và “phụ” (chỉ đàn bà) là sự
khác biệt về giới tính, ngoại hình, tính cách cùng nhiều thiên chức
trong cuộc sống.
“Minh”(冥)
nghĩa là tối “u u minh minh” với nghĩa là sâu kín tối tăm. “minh”(明)
nghĩa là sáng như: bình minh, minh bạch, minh chứng, minh xét…
“Liệt”
(烈) có nghĩa gốc là ngọn lửa nóng, từ đó biểu tượng cho những phẩm chất
tốt đẹp, ngay thẳng của con người như trong các từ: liệt nữ, liệt sĩ,
lẫm liệt... “Liệt”(劣) có nghĩa là “kém, xấu” như trong những từ: bại
liệt, tê liệt, liệt giường...
Trong
cuộc sống hằng ngày xuất hiện không ít những vấn đề khiến chúng ta đặt
dấu chấm hỏi lớn. Có những vấn đề sinh ra một cách rất mâu thuẫn nhưng
chúng ta không biết phải giải thích như thế nào? Trong đời sống hàng
ngày, Chữ nghĩa và Từ ngữ được dùng để chuyên chở ý tưởng, nhưng có bao
giờ chúng ta bất chợt nghĩ đến “nghĩa thật” hoặc xuất xứ của những từ
ngữ thường dùng trên đầu môi chót lưỡi không ? Đôi khi, chính từ những ý
thắc mắc bâng quơ đó mà ta sẽ ngạc nhiên khi tìm thấy thật nhiều suy
nghĩ về cuộc đời, về con người, về thế thái nhân tình, về duyên nợ hồng
trần và đôi khi những bài học kỳ thú về lịch sử nữa …
Xin mượn những câu triết lý uyên thâm của Trang Tử để kết thúc cho bài viết hôm nay:
"Thuyên giả sở dĩ tại ngư,
đắc ngư nhi vong thuyên (筌者所以在魚,得魚而忘筌)
Ðề giả sở dĩ tại thố,
đắc thố nhi vong đề (蹄者所以在兔,得兔而忘蹄)
Ngôn giả sở dĩ tại ý, đắc ý nhi vong ngôn
(言者所以在意,得意而忘言)"
Nghĩa:
Có nơm là vì cá,
được cá hãy quên nơm.
Có dò là vì thỏ,
được thỏ hãy quên dò.
Có lời là vì ý,
được ý hãy quên lời.
Trường
Tết Trùng Cửu
10-23-2023
Nguồn :http://tneu.blogspot.com/2023/11/trung-cuu-trung-duong-song-thap.html
bài rất hấp dẫn
Trả lờiXóa