Người Mường (chữ Nôm: 𤞽 hoặc 𡙧), có tên tự
gọi là: Mol, các tên gọi khác: Mual, Moi, Au tá, Ao
tá, nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Moi Bi, là một
dân tộc sống ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh
Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
Họ rất gần với
người Kinh, một số nhà dân tộc học đưa ra giả thuyết người Mường về mặt sắc tộc
chính là người Kinh nhưng vì cư trú ở miền núi nên họ ít bị Hán hóa. Dân số tại
Việt Nam theo kết quả Điều tra dân số năm 2009 là 1.268.963 người. Tiếng Mường
thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, ngôn ngữ Nam Á.
Không phải
ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày nay. Và đương
nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này làm tên gọi cho dân
tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ Chi), Mường là từ dùng để chỉ một
vùng cư trú của người Mường bao gồm nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai
quản của một nhà Lang. Qua sự tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người Kinh,
người Kinh đã sử dụng danh từ “Mường” để gọi dân tộc này.
Danh từ “Mường” trong “người Mường“, cả hai chữ “Mường” 𤞽
và 𡙧 đều là chữ hình thanh,
có chung thanh phù (bộ phận biểu thị âm đọc của chữ) là chữ “Mang” 芒.
Chữ “Mường” 𤞽 có ý phù (bộ phận biểu thị ý nghĩa của
chữ) là chữ “Khuyển” 犬 có nghĩa là “Ông
Trời”. Chữ “Mường” 𡙧 có thanh phù là chữ “Di” 夷 có nghĩa
là “Con người”.
Cho đến tận
bây giờ, Người Mường vẫn từ gọi mình là Mol, Moăn như ở Hoà Bình, Mon, Mwanl như ở Thanh Hoá. Còn ở Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi người
Mường tập trung đông đảo nhất, cũng như người Mường ở huyện Yên Lập và một số
xã thuộc huyện Thanh Thuỷ, người Mường tự gọi mình là Mol, Monl.
Mặc dù những
từ ngữ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương nhưng đều quan niệm
giống nhau về mặt ý nghĩa. Tất cả những từ gọi mà người Mường dùng để chỉ dân
tộc mình có nghĩa là Người. Vì lẽ đó
mà người Mường thường tự xưng mình là con Mol
hoặc là con Monl: con Người. Còn từ Mường vốn là từ Mương người Mường dùng để chỉ nơi cư trú chứ
không liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình.
Mặc dù vậy, cùng sự biến động của lịch
sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn hoá với các dân tộc anh em khác cho
đến nay “Mường” đã được người Mường chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình,
và hiển nhiên, họ tự nhận mình là người Mường như ngày nay. Do đó, Mường đã trở
thành tên gọi chính thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân
tộc khác. Tộc danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu dùng
khi tìm hiểu, nghiên cứu gọi dân tộc này: Người
Mường.
Người Mường sống tập trung ở các thung
lũng hai bờ sông Đà (Phú Thọ, Sơn La, Ba Vì, Hòa Bình) và khu vực trung lưu của
sông Mã, sông Bưởi (các huyện Thạch Thành, Bá Thước, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc của
tỉnh Thanh Hóa). Người Mường ở Thanh Hoá gồm hai bộ phận: Mường Trong (Mường
gốc) và Mường Ngoài (người Mường di cư từ Hoà Bình vào). Sang đến tỉnh Nghệ An
hầu như không có người Mường sinh sống (năm 1999 chỉ có 523 người Mường trong
toàn tỉnh). Ngoài ra ở Tây Nguyên và vùng Đông Nam phần cũng có gần 27.000
người mới di cư vào trong những năm gần đây.
Người Mường gốc từ hai tỉnh Hoà Bình và
Phú Thọ di cư vào Đồng Nai từ sau hiệp định Genève (1954). Số người Mường được
chính quyền VNCH-Sài Gòn đưa về định cư tại ấp Tân Lập, xã Bình Hoà (nay là xã
Phú Túc, huyện Định Quán). Tổng số người Mường vào ở Đồng Nai là 2.673 người
(1996), đông nhất ở huyện Định Quán. Số còn lại rải rác ở các huyện Xuân Lộc,
huyện Tân Phú, huyện Vĩnh Cửu, huyện Thống Nhất.
Người Mường ở Đồng Nai chủ yếu
sống bằng nghề nông, số hộ buôn bán và làm các nghề khác không đáng kể. Họ định
canh định cư, chủ yếu trồng lúa nước. Ngoài lúa, bà con còn trồng rau xanh, cà,
bí, đậu xanh… Một số hộ có rẫy xa nhà thì trồng cà phê, điều, bắp, đậu… Hầu
hết, các gia đình nào người Mường chăn nuôi gia súc: trâu, bò, heo, gà, vịt.
Một số đánh cá trên sông La Ngà vào lúc nông nhàn.
Đồng bào Mường di cư vào đất Đồng Nai
không còn duy trì chế độ lang đạo, ruộng đất do gia đình nào khai phá thì thuộc
quyền sở hữu của nhà đó. Hôn nhân giữa trai gái đã được tự do, không còn phân
biệt giàu nghèo, và có một số gia đình có hôn nhân với với các dân tộc khác.
Người Mường có cùng nguồn gốc với
người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ… Cũng như các dân
tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, dân gian Mường ở Hòa Bình
còn lưu giữ và truyền kể những huyền thoại về sự xuất hiện dân tộc mình dưới
dạng những áng Mo (những truyền thuyết đó được lưu truyền chủ yếu dưới dạng các
bản mo hát với phiên bản dài ngắn khác nhau).
Thuở xưa, khi con người còn chưa xuất
hiện, trời làm hạn hán, khô khan, cây cối khô mà chết, rồi trời lại mưa. Một
trận mưa to chưa từng thấy. Nước chảy thành suối thành sông. Đất lở bồi thành
đồng bằng. Đá lăn chất đầy thành gò thành đống, thành đồi thành núi. Từ dưới
đất mọc lên một cây si. Cây si lớn như thổi trở thành một cây cổ thụ, cành lá
che kín cả bầu trời. Cây si bị sâu đục ăn làm cho gãy cành rụng lá. Từ gốc cây
si đẻ ra một đôi chim. Chim Ây là đực, Cái ứa là cái. Đôi chim rủ nhau bay lên
cành cây si làm tổ. Cành si gãy. Chim bay lên cây đa làm tổ. Cây đa đổ. Chim Ây
và Cái Ứa lại rủ nhau bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ Hang Hao. Cái Ứa đẻ ra
trăm ngàn quả trứng. Trứng chim nở ra thành muôn loài muôn vật. Còn lại một
trăm cái trứng thì nở ra con người. Đó là người Mường và người Kinh
Người
Mường Thanh Sơn còn cho rằng Đức Thánh Tản Viên Sơn (còn gọi là Sơn tinh) – Con
rể vua Hùng thứ 18 – là người Mường Thanh Sơn. Truyền kể rằng, ở vùng mường
Xuân đài, Khả Cửu ngày xưa có một cô gái con nhà Lang tên là Đinh Thị Đen
(người Mường Thanh Sơn gọi là Đinh Thị Điên). Cô là người đen đủi xấu xí nhất
trong gia đình dòng họ nên bị bố mẹ, anh chị em hắt hủi. Một lần vào rừng lấy
củi, cô gái tủi thân ngồi khóc trên một tảng đá và ngủ thiếp đi. Từ đó cô có
thai và đã bị nhà Lang hắt hủi đuổi đi. Cô đã lang thang lần đi đến vùng mường
Tất Thắng. Dân ở đó thấy cô đói khát đã cho cô ăn uống. Từ Tất Thắng, cô lại đi
tiếp đến động Lăng Xương (thuộc xã Trung Nghĩa huyện Thanh Thủy ngày nay) thì
đẻ ra thần Tản Viên. Dân bản ở đây thương tình đã đóng cho cô một bè nứa và đưa
hai mẹ con cô vượt sông Đà sang vùng Ba Vì (thuộc Hà Nội ngày nay). Mẹ con bà
Đinh Thị Đen được bà Ma Thị là chúa các động mường cưu mang nhận làm con nuôi.
Khi Tản Viên lớn lên, thần được bà Ma Thị truyền cho quyền cai trị và bảo vệ các
xứ mường. Thần đã lấy con gái vua Hùng thứ 18 tên là Ngọc Hoa làm vợ.
Người
Mường ở các xã Lai Đồng, Đồng Sơn, Thạch Kiệt còn lưu truyền truyền thuyết “Đẻ
giang” như sau: ở đất mường Tồng (tên gọi cũ của Lai Động) có một cái hang gọi
là hang Cơng Tiếng. Ở đó có con chim ưng đẻ ra một quả trứng. Quả trứng nở ra
một con vứa (con ngài tằm). Con Vứa bay hết Mường này sang Mường nọ rồi đậu vào
cây đa, cây sấu rồi bay tiếp lên núi đá trắng. Cũng từ đó bản Mường trở nên
đông vui sầm uất. Người Mường biết làm nhà để ở và đẻ con cái, ra bố mẹ con
giang. Bố mẹ con giang ra trước rồi tiếp theo đẻ ra được Buồng Nang Ráu, là
cháu nàng Thăn, con của nàng Ún Mái. Nàng Ún Mái lại đẻ ra dân ra bản, đẻ ra vợ
chồng. Từ đó, Người Mường có quê quán, có nhà có cửa, có cơm ăn, rượu uống và
vàng bạc. Họ mang giang đi hát khắp nơi. Từ đó các bản mo giang được truyền bá
rộng rãi như sang mường Pi, mường Thàng (Hoà Bình) để những vùng mường này phát
triển. Nhờ đó con giang được truyền và ăn sâu vào đời sống tinh thần của người
Mường.
(lễ hội)
Tài liệu
sưu tầm từ Wikipedia
Hồ Xưa
trình bày ____________________________________________________________
Mời họa;
CÔ
GÁI VƯỜN MƯỜNG LUÔNG
Cô gái Mường Luông rất dễ thương,
Bao năm sớm tối chỉ quanh vườn.
Nhìn cành bưởi ổi thi khoe
dáng,
Ngắm đám đào mai
cúc tỏa hương.
Lẩn thẩn lắng nghe chim bạn hót,
Lu bu gom nhặt lá vơi vươn.
Sớm hôm một bóng tâm an phúc,
Bận rộn nhưng lòng chẳng vấn vương.
HỒ NGUYỄN
(12-8-15).
(ảnh:Google)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét