Nguyễn Ức 阮億 hiệu là Lan Trai. Chưa rõ quê quán ở đâu, sinh và mất năm
nào. Chỉ biết dưới triều Trần Minh Tông, ông từng làm quan ở viện hàn
lâm. Nguyễn Ức còn là bạn thân của Văn Huệ Vương Trần Quang Triều, có
tham gia thi xã Bích Động do Trần Quang Triều sáng lập.
Tác
phẩm của ông hiện còn 20 bài thơ chép trong "Toàn Việt thi lục". Qua
thơ, người ta biết Nguyễn Ức thường hay xướng họa với Trần Quang Triều.
Và sau khi người bạn này mất, ông đã lo việc biên tập thơ văn của bạn.
Bài "Biên tập Cúc Đường di cảo cảm tác" của ông đã nói lên điều ấy.
Mặc
dù số thơ của Nguyễn Ức còn lại không nhiều, nhưng ông cùng với Trần
Quang Triều và Nguyễn Sưởng họp thành một dòng thơ riêng thời Trần. Theo
GS. Nguyễn Huệ Chi, thì đó là những con người mang trong lòng nỗi thất
vọng sâu sắc về sự suy thoái của vương triều này. Song riêng ở Nguyễn
Ức, ông không có sự gắng gượng hoặc che giấu mình như người khác, vì thế
thơ ông mang âm điệu chán nản, tiêu cực, có xu hướng chuyển dần sang hư
vô chủ nghĩa...Về mặt nghệ thuật, ngòi bút của ông thật là lão luyện.
Ông biết cách làm cho câu thơ thêm buồn trĩu, và thể hiện được những cảm
giác cô đơn, xa vắng...
Sau đây là các bài thơ tiêu biểu của ông :
1. Bài thơ Thu Dạ Dữ Cố Nhân Chu Hà Thoại Cựu :
秋夜與故人朱何話舊 Thu Dạ Dữ Cố Nhân Chu Hà Thoại Cựu
秋來偶伴菊花叢, Thu lai ngẫu bạn cúc hoa tùng,
一室芝蘭嗅味同。 Nhất thất chi lan khứu vị đồng.
世事泛談燈影外, Thế sự phiếm đàm đăng ngoại ảnh
交情深寄酒杯中。 Giao tình thâm ký tửu bôi trung
幾莖白髮時相晚, Kỷ hành bạch phát thời tương vãn,
萬里青雲訊未通。 Vạn lý thanh vân tín vị thông.
獨對不來今夕夢, Độc đối bất lai kim tịch mộng,
西風吹雨落梧桐。 Tây phong xuy vũ lạc ngô đồng.
阮億 Nguyễn Ức
* CHÚ THÍCH :
- Cố Nhân : là Người Xưa, là Bạn Cũ.
- Thoại Cựu : Nhắc chuyện xưa, chuyện cũ.
- Ngẫu Bạn 偶伴 : Ngẫu nhiên được bầu bạn. Thi Viên ghi chữ Bàng 徬 là Bàng Hoàng 徬徨.
- Khứu 嗅 : là Ngửi, nên Khứu Vị là Ngửi mùi. Còn Thi Viên ghi chữ XÚ 臭:
là Mùi Hôi, thối. Nên Xú Vị Đồng 臭味同 là Mùi hôi thối giống như nhau.
- Phiếm Đàm 泛談 :
là Nói chuyện phiếm. Bản của Thi Viên là Phiếm Luận 泛論: là Luận chuyện
phiếm, không sát nghĩa bằng Phiếm Đàm, hơn nữa Phiếm Luận chữ LUẬN lại
sai Luật Bằng Trắc trong câu.
- Kỷ Hành : là Mấy Cọng , mấy Sợi.
- Tín 訊 : là Âm Tín 音訊 là Tin Tức. Thi Viên ghi là Tín 信 là Thư Tín,
không sát nghĩa với từ Vị Thông 未通 ở phía sau. Tín Vị Thông 訊未通 Có nghĩa
là Không thông, không biết tin tức gì của nhau cả !
* DỊCH NGHĨA :
Đêm Thu Nhắc Chuyện Cũ Với Người Xưa Là Chu Hà
Nhớ thuở thu về, ngẫu nhiên được bầu bạn cùng bạn bên khóm cúc, nên một
nhà cùng sực nức mùi của hoa chi lan. Bên ánh đèn đêm, ta cùng nhau bàn
phiếm về chuyện đời, và cái giao tình của ta càng sâu đậm thêm qua
chung rượu. Nay thì, lơ thơ mấy cọng tóc trắng khi tuổi đã về chiều, lại
cách trở vạn dặm mây xanh bặc vô âm tín. Một mình ngồi dưới ánh đèn
biết bạn cũng không tới được trong giấc mộng đêm nay, ngoài kia, gió tây
đang thổi những giọt mưa thu làm rơi rụng lá ngô đồng.
Khóm cúc tượng trưng cho sự thanh cao nhàn nhã như ẩn sĩ Đào Tiềm đời
Tấn " Thái cúc đông ly hạ (Hái cúc ở bờ giậu phía đông), còn hoa chi lan
tượng trưng cho tình bạn cao nhã thắm thiết. Nhắc chuyện cũ với bạn xưa
vì quan san cách trở, lại bặc vô âm tín, lại tuổi già sức yếu, biết là
khó có thể gặp lại nhau, dù là trong mộng ! Tình cảm quả là thắm thiết
não nề trong đêm mưa thu rả rít gió cuốn làm rơi rụng cây lá ngô đồng !
* DIỄN NÔM :
Đêm Thu Nhắc Chuyện Cũ Với Người Bạn Xưa Là Chu Hà
Nhớ thu gặp bạn cúc vừa hoa,
Hương ngát chi lan sực nức nhà.
Chuyện phiếm bên đèn bàn thế sự,
Tình sâu chung rượu gởi lòng ta.
Lơ thơ tóc bạc già đeo đẵng,
Vạn dặm mây xanh tin vắng xa.
Dẫu mộng khó mong còn gặp lại,
Ngô đồng rơi rụng gió mưa sa !
Lục bát :
Gặp người khóm cúc thu qua,
Chi lan sực nức một nhà kết giao.
Phiếm bàn thế sự thao thao,
Tình sâu chung rượu đổi trao tấc lòng.
Lơ thơ tóc bạc lão ông,
Mây xanh vạn dặm bặc tăm chẳng cùng.
Dẫu cho mộng, khó tương phùng,
Mưa thu gió rít ngô đồng rụng rơi !
Đỗ Chiêu Đức
2. Bài thơ Bạc Chu Ứng Phong Đình Ngẫu Đề :
泊舟應豐亭偶題 Bạc Chu Ứng Phong Đình Ngẫu Đề
繫纜江亭覓勝遊, Hệ lãm giang đình mịch thắng du
前朝行殿已荒丘。 Tiền triều hành điện dĩ hoang khâu.
鶯花不識興亡事, Oanh hoa bất thức hưng vong sự
撩亂春光未肯休。 Liêu loạn xuân quang vị khẳng hưu.
阮億 Nguyễn Ức
* CHÚ THÍCH :
- Bạc Chu :là Ghé thuyền, đậu thuyền lại.
- Ngẫu Đề : là Ngẫu nhiên đề thơ, là bất chợt viết nên bài thơ.
- Hệ Lãm : Hệ là Buộc, Lãm là Quấn quanh bằng dây luộc( dây chão ), nên Hệ Lãm là Từ Kép chỉ việc trói buộc, cột chặc.
- Thắng Du : Thắng cảnh để du ngoạn, chỉ Cảnh đẹp.
- Hành Điện : Cung điện xây tạm cho vua chúa ở khi đi ra ngoài, thường
gọi là Hành Cung 行宮, ở đây vì muốn cho hợp Bằng Trắc nên mới đổi Hành
Cung thành Hành Điện 行殿.
- Oanh Hoa : Chim Oanh và Hoa là 2 biểu tượng của mùa Xuân.
- Liêu Loạn : là Rối loạn, là lộn xộn.
- Vị Khẳng : là Không chịu, nên Vị Khẳng Hưu 未肯休 là Không chịu ngừng nghỉ.
* DỊCH NGHĨA :
Ngẫu Nhiên Đề Thơ Ở Đình Ứng Phong Khi Đậu Thuyền
Cột chặc thuyền ở cái đình ven sông để lên bờ tìm thắng cảnh du ngoạn.
Chỉ thấy hành cung của triều trước nay đã là những gò đất hoang. Chim
oanh và hoa cỏ không biết đến việc hưng vong thạnh suy gì cả, cứ nở tràn
lan và hót liú lo làm rối loạn cả ánh nắng xuân vẫn chưa chịu ngừng
nghỉ.( vẫn dửng dưng trước cảnh tang thương biến đổi của cuộc đời !)
Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài " Sơn Phòng Xuân Sự 山房春事 " của Sầm Tham với hai câu :
庭樹不知人去盡, Đình thọ bất tri nhân khứ tận,
春來還發舊時花。 Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.
Có nghĩa :
Cây cỏ biết đâu người đà vắng,
Xuân về vẫn trổ những hoa xưa !
* DIỄN NÔM :
Thuyền buộc giang đình tìm thắng cảnh,
Hành cung ngày trước đã hoang tàn.
Oanh hoa chẳng biết chi hưng phế,
Ríu rít chào xuân mãi chẳng màng !
Lục bát :
Buộc thuyền tìm cảnh du xuân,
Hành cung triều trước đã thành gò hoang.
Oanh hoa chẳng biết thương tang,
Líu lo hoa nở rộn ràng nắng xuân !
Đỗ Chiêu Đức
3. Bài thơ "Chu Quá Bắc Giang Tiên Du Tác":
舟過北江仙遊作 Chu Quá Bắc Giang Tiên Du Tác
客帆歷歷過仙遊, Khách phàm lịch lịch qúa Tiên Du,
羞見青山對白頭。 Tu kiến thanh sơn đối bạch đầu
半塔夕陽孤剎迥, Bán tháp tịch dương cô sát quýnh,
一江明月四橋秋。 Nhất giang minh nguyệt tứ kiều thu.
霜餘紅稻連雲熟, Sương dư hồng đạo liên vân thục,
雨後丹楓隔岸迂。 Vũ hậu đan phong cách ngạn vu,
歸思不堪逢逆水, Quy tứ bất kham phùng nghịch thủy,
咫程何日到神州 ? Chỉ trình hà nhật đáo thần châu ?
阮億 Nguyễn Ức
* CHÚ THÍCH :
- Bắc Giang Tiên Du : là huyện Tiên Du thuộc phủ Bắc Giang, nơi xuất
hiện một nhân vật huyền thoại đời nhà Trần qua truyện cổ " Tuyền Kỳ Mạn
Lục " của Nguyễn Dữ, đó chính là anh chàng Từ Thức gặp tiên ở hang động
Từ Thức còn lưu dấu đến hiện nay.
- Khách Phàm : Không phải là Khách phàm tục, mà là Thuyền buồm của khách.
- Cô Sát : là Ngôi chùa đơn độc.
- Quýnh 迥 : là Xa xôi vắng vẻ, nhưng ở đây dùng
để tả Ngọn Tháp của chùa, nên Quýnh có nghĩa là vượt lên cao chót vót
theo như thành ngữ "Tháp Thế Cô Quýnh 塔勢孤迥" có nghĩa : Thế tháp đứng một
mình cao lên chót vót.
- Vu 迂 : là Xa xôi lòng vòng.
- Quy Tứ : Ý muốn về lại quê nhà.
- Nghịch Thuỷ : là Nước ngược.
- Chỉ Trình : là hành trình chỉ gần trong gang tấc. Hà Nhật : là Ngày nào ? là Bao giờ ?
- Thần Châu : Tên ngọn núi tiên ở, tức non Thần. Đoạn trường tân thanh có câu :
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần.
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Thần Châu còn được dùng để chỉ vùng đất kinh đô, đất của vua.
* DỊCH NGHĨA :
Cảm Tác Khi Thuyền Đi Qua Tiên Du Bắc Giang
Những cánh buồm của thuyền khách lần lượt đi qua núi Tiên Du. Ta thẹn
vì núi xanh vẫn còn đó mà đầu ta thì đã bạc trắng cả rồi. Ngôi chùa đơn
độc trong ánh nắng chiều với nửa ngọn tháp vượt lên trên trời cao chót
vót, và một dòng sông đầy ánh trăng sáng với bốn nhịp cầu thu. Sau tiết
Sương Giáng đồng lúa chín đỏ rực như liền tận chân mây, và sau cơn mưa
lá phong đỏ rực lên xa xa ở bên kia bờ sông uốn khúc. Ta có ý trở về
quê nhưng không được vì gặp phải con nước ngược, hành trình từ đây đến
Thần Châu rất ngắn, nhưng bao giờ mới tới được Thần Châu đây ?
Rõ khéo ngớ ngẩn, ngang qua núi Tiên Du, nhớ chuyện Từ Thức gặp Tiên,
rồi thác cớ là muốn về quê nhưng gặp phải nước ngược, nên muốn đến Thần
Châu để gặp tiên một chuyến, vì nơi tiên ở nếu nói xa thì ở ngoài ngàn
dặm, còn bảo gần thì chỉ trong gang tấc mà thôi !
* DIỄN NÔM :
Thuyền khách Tiên Du lũ lượt qua,
Núi xanh trông thẹn trắng đầu ta.
Nắng chiều nửa tháp chùa cao vút,
Trăng sáng một dòng cầu bắt qua.
Sương giáng liền mây đồng lúa chín,
Mưa thu đỏ lá bến bờ xa.
Muốn về chẳng được vì con nước,
Gang tất Thần Châu mấy thuở qua ?
Lục bát :
Tiên Du lớp lớp buồm qua,
Thẹn cùng núi biếc đầu đà trắng tinh.
Nắng chiều chùa tháp vươn mình,
Cầu thu sông nước nguyệt minh một dòng.
Sương pha lúa chín đầy đồng,
Sau mưa lá đỏ bên sông bàng hoàng.
Muốn về nước ngược khó sang,
Non Thần ngắn ngủi mơ màng đến chơi !
Đỗ Chiêu Đức
4. Bài thơ " Tống Nhân Bắc Hành ":
送人北行 Tống Nhân Bắc Hành
都門回首樹蒼蒼, Đô môn hồi thủ thọ thương thương,
立馬頻斟勸客觴。 Lập mã tần châm khuyến khách trường.
一段離情禁不得, Nhất đoạn ly tình cấm bất đắc,
津頭折柳又斜陽。 Tân đầu chiết liễu hựu tà dương.
阮億 Nguyễn Ức
*CHÚ THÍCH :
- Đô Môn : là Cửa của Kinh đô, kinh thành.
- Lập Mã : là Dừng ngựa lại.
- Tần Châm : là Thỉnh thoảng lại rót (rượu).
- Trường 觴 : là Chén uống rượu.
- Cấm Bất Đắc : là Cấm không được, có nghĩa là " Không ngăn được ".
- Tân Đầu : là Bến nước.
* NGHĨA BÀI THƠ :
Đưa Người Đi Về Phương Bắc
Quay đầu nhìn lại cửa kinh đô chỉ thấy cây xanh một màu. Dừng ngựa lại
không ngừng rót rượu khuyên mời khách, nhưng cũng không sao ngăn được
cái đoạn ly tình nầy, nên nơi bến nước ta vẫn phải bẻ cành liễu để tặng
bạn làm roi ngựa lên đường khi trời lại ngã về chiều.
Tống
quân thiên lý, chung tu nhất biệt 送君千里,終須一別。Có nghĩa : Dù cho có đưa
nhau một ngàn dặm đi nữa, rốt cuộc rồi cũng phải chia tay mà thôi ! Tình
cảm tiễn đưa quyến luyến thật thắm thiết làm sao ! Đọc câu Đô môn hồi
thủ thọ thương thương 都門回首樹蒼蒼 lại làm ta nhớ đến nàng chinh phụ tiễn
chồng :
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu !
* DIỄN NÔM :
Cửa thành ngoảnh lại một màu xanh,
Dừng ngựa chén mời đưa tiễn anh.
Một khúc ly tình ai thấu hiểu,
Bên bờ bẻ liễu bóng chiều nhanh !
Lục bát :
Cửa kinh ngoảnh lại xanh xanh,
Chén đưa rót mãi tiễn anh lên đường.
Ly tình một khúc ai tường,
Bên bờ bẻ liễu sầu vương nắng chiều !
Đỗ Chiêu Đức
5. Bài thơ " Biên tập Cúc Đường di cảo Cảm tác ":
編集菊塘遺稿感作 Biên tập Cúc Đường di cảo Cảm tác
陵柏陰陰鎖翠微, Lăng bách âm âm tỏa thúy vi,
數聲啼鳥送殘暉。 Sổ thanh đề điểu tống tàn huy.
鼎湖波泛龍逾遠, Đỉnh hồ ba phiếm long du viễn,
華表雲深鶴未歸。 Hoa biểu vân thâm hạc vị quy.
客路幾年嗟潦倒, Khách lộ kỷ niên ta lạo đão,
鈞天午夜夢依稀。 Quân thiên ngọ dạ mộng y hi.
倚欄無限傷心事, Ỷ lan vô hạn thương tâm sự,
目斷山城淚暗揮。 Mục đoạn sơn thành lệ ám huy.
阮億 Nguyễn Ức
* CHÚ THÍCH :
- Cúc Đường 菊塘: Có nghĩa là " Cúc bên bờ ao ". Cúc Đường Chủ Nhân 菊塘主人
là biệt hiệu của Tư Đồ Trần Quang Triều, người vừa là thượng cấp vừa là
bạn thơ của Nguyễn Ức dưới đời vua Trần Minh Tông (1314-1329).
- Lăng Bách : Những cây bách bên lăng mộ.
- Thúy Vi : Núi có cây xanh bao phủ.
- Sổ 數 : là Hình dung Từ chỉ Một Vài; nếu là Động từ thì có nghĩa là
Đếm. Còn đọc là SỐ 數 thì là Danh từ, chỉ Con Số hay Số Lượng.
- Tàn Huy 殘暉 : Ánh nắng của buổi chiều tàn.
- Đỉnh Hồ : Chiếc đỉnh bên hồ nước trước lăng mộ.
- Hoa Biểu : Những hoa văn được khắc chế trên cột và cổng của lăng mộ.
- Lạo Đão : Thất bại, lận đận, nổi chìm.
- Quân Thiên : là Giữa Trời. Ngọ Dạ : là Nửa đêm.
- Y Hi : là Mơ Màng, là Văng vẳng, là Chặp chờn... tuỳ theo ngữ cảnh.
- Mục Đoạn : Nhìn mút con mắt.
- Lệ Ám Huy 淚暗揮 : là Âm thầm gạt lệ.
Ta thấy
chữ Huy 揮nầy có bộ Thủ 扌 nên có nghĩa là : Đưa tay lên ( để gạt lệ ).
Còn chữ Huy 暉 trong từ Tàn Huy 殘暉 ở bên trên, có bộ Nhựt 日 nên có nghĩa
là Ánh nắng ( của Mặt trời ).
* DỊCH NGHĨA :
Cảm Tác Khi Biên Tập Cúc Đường Di Cảo
Những cây bách quanh
lăng thâm u che kín cả màu xanh của núi, vài tiếng chim lẻ loi như đưa tiễn ánh
nắng tàn của buổi chiều tà. Các đợt sóng nhấp nhô khắc trên đỉnh ở bên hồ hình
bóng của rồng càng xa tít, và trên các phù điêu khắc nổi những đám mây vần vũ
chưa thấy bóng hạc trở về. Mấy năm trên con đường đất khách than cho thân nhiều
lận đận, trằn trọc thâu canh trong giấc mộng chập chờn. Tựa lan can mà tâm sự
trùng trùng không ngớt thương tâm, nhìn mút mắt về phía chân thành bên núi mà
âm thầm gạt lệ.
* DIỄN NÔM :
Quanh lăng tùng bách vẻ cô liêu,
Mấy tiếng chim côi bóng xế chiều.
Đĩnh khắc sóng vờn rồng vẫn vắng,
Phù điêu mây nổi hạc chưa về.
Mấy năm đất khách than chìm nổi,
Canh vắng tàn đêm mộng não nề.
Đứng tựa lan can thương cảm mãi,
Vời trông gạt lệ hận riêng tê.
Lục bát :
Quanh lăng tùng bách thâm u,
Chim kêu đơn lẻ chiều thu nắng tàn.
Đỉnh hồ rồng vắng sóng lan,
Phù điêu mây nổi hạc vàng về đâu.
Mấy năm đất khách thêm sầu,
Nửa đêm canh vắng mộng đâu mơ màng.
Lòng thương cảm, tựa lan can,
Mõi trông thành núi bàng hoàng lệ rơi !
Đỗ Chiêu Đức