Kim
金 là Vàng, là kim loại qúy có ký hiệu hóa học là Au (L. aurum) và số
nguyên tử là 79. Nhưng người đời chỉ biết đến vàng 24K hoặc vàng 4 số 9
mà thôi. Vàng 24K, giới bình dân quen gọi là Vàng ròng, nghĩa là vàng
không có pha thêm tạp chất nào cả, là Vàng thứ thiệt!
Kim 金 cũng là một trong 214 bộ của CHỮ NHO... DỄ HỌC, thuộc dạng chữ Hội Ý theo diễn tiến của chữ viết như sau:
Chung Đỉnh Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy :
Chung Đỉnh Văn và Đại Triện đều được ghép bởi chữ Nhân 人 ở trên, tượng
trưng cho sự che đậy như hình ngọn núi; chữ Thổ 土 là đất và chữ Nhị 二 là
số 2 ở phía dưới; hàm ý là thứ vật thể được vùi chôn dưới 2 lớp đất của
một ngọn núi, đó chính là Khoáng vật kim loại nói chung, mà Vàng là
tiêu biểu nhất cho các kim loại đó. Đến Tiểu Triện và chữ Lệ thì đã
thành hình chữ viết như ngày hôm nay KIM 金 là Vàng, nên ta có từ...
Ngũ Kim 五金 để chỉ chung cho tất cả kim loại mà vàng được xếp đầu tiên
là: Kim, Ngân, Đồng, Thiết, Tích 金、銀、銅、鐵、錫 là Vàng, Bạc, Đồng, Sắt,
Nhôm. Ta thấy các chữ Ngân, Đồng, Thiết, Tích 銀、銅、鐵、錫 đều có Bộ KIM 金 đi
bên trái và có tất cả 694 chữ có bộ Kim để chỉ tất cả những gì có liên
quan đến Kim Loại.
Kim 金
là Vàng, là kim loại qúy nhất trong các kim loại, có màu vàng óng ánh
và không sợ lửa, lửa có đốt như thế nào cũng không làm sao phai đi màu
vàng của... kim được, nên ông bà ta thường nói "Vàng thật không sợ lửa"
là thế! Từ ngàn xưa vàng đã được tôn vinh cho sự cao sang quyền qúy, nhà
của người giàu luôn được sơn son thếp vàng, nhà để cho người đẹp ở thì
phải là nhà vàng, nhất là những người đẹp lại tài hoa như Thúy Kiều,
khiến cho Hoạn Thư cũng phải buộc miệng:
Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc Nhà Vàng cũng nên!
Giá này dẫu đúc Nhà Vàng cũng nên!
Vàng chẳng những Phú mà còn Qúy nữa, cái bảng đề tên các sĩ tử thi đậu
ngày xưa được gọi là Bảng Vàng, như các cụ đồ Nho thường kháo nhau về Tứ
Khoái của người đời là:
Cữu hạn phùng cam võ, 久旱逢甘雨,
Tha hương ngộ cố tri . 他鄉遇故知.
Động phòng hoa chúc dạ, 洞房花燭夜,
Kim Bảng quải danh thì! 金榜掛名時 !
Có nghĩa :
Hạn lâu mưa như trút,
Xứ lạ gặp người quen,
Đêm động phòng hoa chúc,
Bảng Vàng thấy đề tên!
Ngày xưa đâu còn có gì quý hơn là thi đậu sau những tháng năm đèn sách
dùi mài kinh sử: "Thập niên song hạ vô nhân thức, nhất cử thành danh
thiên hạ tri! 十年窗下無人識,一舉成名天下知" là: Mười năm dùi mài dưới song cửa không
người biết đến, nhưng hễ thi đậu một cái là cả thiên hạ đều biết tên,
cho nên Trần Tế Xương mới ngông nghênh khi thấy tên mình trên bảng vàng:
Ông trông lên bảng thấy tên ông,
Ông tợp rượu vào ông nói ngông!...
...Ý là chỉ mới đậu có Tú Tài thôi đó, chớ đậu cao hơn nữa thì ai chịu đời cho thấu với ông Tú Vị Xuyên đây?!
Nhà quyền qúy thì vào sân chầu đeo ngọc như ý, nhà giàu sang thì cửa
sơn son thếp vàng, nên khi gặp Kim, Kiều đã xem tướng mạo của chàng và
bi quan cho số phận của mình như sau:
Nàng rằng trộm liếc dung quang ,
Chẳng sân Ngọc Bội cũng phường Kim Môn.
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn duyên biết có vuông tròn mà hay!?
Ngày xưa, nam thì trông công danh thi cử, nữ thì chỉ mơ ước được một
tấm chồng có tình có nghĩa, mười hai bến nước trong nhờ đục chịu, nên
khi bán mình và sau khi trối trăn với Thúy Vân xong, thì Kiều đã kêu lên
trước khi ngất xỉu:
Ôi Kim lang, hỡi Kim lang,
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Phận gái khi xưa, rất khó tìm được người thương mình thật sự, nên khi
gặp gia biến phải bán thân và phải rời xa Kim Trọng, cô Kiều mới đau xót
đến thế. Người xưa cũng thường nói:
Dị cầu vô giá bảo, 易求無價寶,
Nan đắc hữu tình lang. 難得有情郎。
Có nghĩa :
Vật báu dù vô giá cũng dễ cầu để mà có được, còn...
Đàn ông thì khó mà tìm được một người có tình nghĩa lắm!
Đàn ông xưa nay vốn nổi tiếng là "bạc tình" mà! Nhất là đàn ông Á Đông
với truyền thống năm thê bảy thiếp, thì làm sao có thể chung tình cho
được.
Kim
Lang 金郎 là Chàng Kim, là chàng Kim Trọng 金重, mà chữ Kim 金 ghép với chữ
Trọng 重 là chữ CHUNG 鍾, nên khi thất thân với Mã Giám Sinh, cô Kiều đã
than rằng :
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhụy đào thà bẻ cho người tình CHUNG.
Sao cô không nói:
Nhụy đào thà bẻ cho người tình LANG.
hay...
Nhụy đào thà bẻ cho người tình XA... v.v. và...v.v. mà phải là "người
tình CHUNG"? À, thì ra cụ Nguyễn Du nhà ta đang chơi chữ một cách rất
tài tình, vì "người tình CHUNG 鍾" là "người tình tên KIM TRỌNG 金重! Không
phải là tôi cố bới lông tìm vết để... bóc thơm cụ Nguyễn Du, cũng không
phải cụ Nguyễn Du ngáp phải ruồi mà sử dụng đúng từ CHUNG 鍾 là tên của
KIM TRỌNG 金重, mà nói có sách mách có chứng đàng hoàng:
Cuối
đời nhà Minh, có một thư sinh họ Cổ tên Tấn, ở đảo Hải Nam lai kinh ứng
thí. Khi đi đến Quế Lâm, nơi nổi tiếng với bún gạo thật ngon, vì là thư
sinh nghèo phải ở trọ trong chùa, nên chỉ ăn ké được có bửa ngọ trai.
Buổi chiều dạo ngang qua hàng bún gạo Quế Lâm thơm phức nhưng chỉ dám
đứng nhìn mà thôi. Bất ngờ ông lão chủ quán thấy điệu bộ thèm thuồng của
anh ta, bèn cất tiếng hỏi: "Này anh thư sinh, lão có một vế đối tả lại
công việc hàng ngày của lão, nếu anh đối được, lão sẽ mời anh một tô bún
khỏi trả tiền!" Cổ Sinh khẩn khoản xin vế đối, Ông lão chủ quán bèn đọc
là:
Bát đao phân mễ phấn, 八刀分米粉,
Mễ Phấn 米粉 là
Bột Gạo, mà cũng có nghĩa là Bún Gạo nữa, nên vế đối trên có nghĩa:
Xắt tám dao để chia bún gạo ra thành từng sợi. Câu đối mới nghe tưởng
dễ, chừng nhẫm đọc lại anh chàng Cổ Sinh mới tá hỏa, vì chữ Bát 八 chồng
lên chữ Đao 刀 thành chữ Phân 分, mà chữ Phân 分 ghép với chữ Mễ 米 thì
thành chữ Phấn 粉 là Bột. Vế ra qúa hay và qúa hóc búa. Còn đang ngồi
thừ ra đó để suy nghĩ, thì ông lão chủ quán đã nấu xong tô bún gạo thơm
phức mang tới và cười bảo: "Ăn trước cho no bụng đi, rồi thủng thẳng
hãy đối cũng chưa muộn, không sao đâu!" Vừa thẹn vừa ngỡ ngàng nhưng
bụng đói qúa, anh chàng thư sinh đành cắm đầu ăn hết tô bún, nói lời cám
ơn rồi đi riết về chùa. Nằm bên mái hiên chùa trằn trọc mãi không sao
ngủ được. Trăn trở đến nửa đêm bỗng nghe trên chánh điện vang lên một
tiếng "Boong" thật lớn, chạy lên xem, thì ra một chú mèo ăn đêm làm rơi
một miếng ngói rớt trúng qủa chuông vàng trên chánh điện. Cổ Sinh như
chợt tỉnh ngộ ra, mình từ ngàn dặm đi thi mới đến được đây để nghe tiếng
chuông vàng nầy, bèn ứng khẩu đọc ra vế đối: Thiên lý trọng kim chung 千里重金鍾,
có nghĩa : "Ngàn dặm đến đây để trân trọng tiếng chuông vàng nầy". Hôm
sau, vừa sáng sớm, Cổ Sinh bèn tươi cười ra gặp ông lão chủ quán mà đọc
rằng:
Bát đao phân mễ phấn, 八刀分米粉,
Thiên lý trọng kim chung. 千里重金鍾.
Ông lão nghe xong vế đối, bèn nấu bưng ra một tô bún gạo Quế Lâm thơm
phức để đãi chàng thư sinh tài hoa, vì vế đối qúa hay: Chữ Thiên 千 chồng
lên trên chữ Lý 里 thành chữ Trọng 重, chữ Trọng 重 ghép với chữ Kim 金
thành chữ Chung 鍾 là Cái Chuông. Và cũng vì thế mà ta mới có được 2 câu
thơ tuyệt vời của cụ Nguyễn Du để cho cô Kiều nuối tiếc khi phải thất
thân với Mã Giám Sinh:
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhụy đào thà bẻ cho người tình CHUNG.
Bún gạo Quế Lâm
Để kể chuyện cho có hậu, kính mời đọc tiếp phần cuối của câu truyện trên...
...
Sau khi ăn xong tô bún thưởng, ông chủ quán còn cho tiền lộ phí để Cổ
Tấn lai kinh ứng thí. Khoa đó chàng đậu ngay Tiến Sĩ cập đệ. Khi vinh
quy bái tổ trở về ngang Quế Lâm, chàng ghé lại thăm và tạ ơn ông chủ
quán, mới biết ông cụ họ Trịnh, mấy đời đều sinh nhai bằng nghề làm và
nấu bún gạo bán. Thấy hoàn cảnh ông cụ cũng neo đơn, Cổ Tiến bèn nhận
ông làm nghĩa phụ và phụng dưỡng ông cụ suốt đời.
Theo âm dương ngũ hành thì Tây phương Canh Tân Kim, nên Vàng thuộc
hướng Tây, gió hướng tây là gió mùa thu, nên còn được gọi là Kim Phong
là Gió Vàng, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mở đầu Cung Oán Ngâm
Khúc bằng 2 câu:
Trải vách quế Gió Vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.
Kim là Vàng, nhưng Kim Ngư 金魚 không phải là Cá Vàng, mà là Cá Thia Thia
Tàu. Kim Ô 金烏 không phải là con quạ Vàng, mà là chỉ Mặt Trời, ta thường
nghe nói "Vầng Kim Ô vừa ló dạng", có nghĩa là "Mặt trời vừa mới mọc".
Kim Kinh 金經 không phải là quyển sách vàng, mà là chỉ chung các quyển
kinh Phật (có thể là do từ Kim Cang Kinh mà ra). Kim Liên 金蓮 không phải
là hoa sen vàng, mà là chỉ các gót sen nhỏ nhắn dễ thương của các bà các
cô ngày xưa với: Tam thốn Kim Liên tứ thốn yêu 三寸金蓮四寸腰, có nghĩa là:
"Ba tấc gót sen bốn tấc eo" mà thôi. Trong Kiều tả lúc cô Kiều đi tìm
Kim Trọng sau khi "Thời trân thức thức sẵn bày" là:
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường.
...và khi tả hồn ma Đạm Tiên đến báo mộng cho Kiều, cụ Nguyễn Du cũng viết:
Sương in mặt tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa!...
Kim
Hầu 金猴 Không phải là con khỉ vàng, mà là con khỉ mặt xanh có bộ lông
vàng lấp lánh. Kim Khẩu 金口 Không phải là cái miệng bằng vàng, mà là chỉ
cái miệng của những người quyền quý, ngày xưa dùng để chỉ cái miệng của
ông vua, còn trong văn thơ Tiền Chiến nhà thơ Xuân Diệu dùng để chỉ
cái miệng của những ngườiđẹp :
Mở miệng vàng... và hãy nói yêu tôi...
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi...
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi...
Kim Lan 金蘭 Không phải chỉ hoa lan bằng vàng, mà chỉ tình bạn bè gắn
bó, có xuất xứ từ kinh "Chu Dịch-Hệ Từ thượng": Nhị nhân đồng tâm, kỳ
lợi đoạn KIM; Đồng tâm chi ngôn, kỳ khứu như LAN《周易·系辞上:“二人同心,其利断金;同心之言,其嗅如兰”。Có nghĩa:
Theo Hệ Từ Thượng của kinh Chu Dịch có câu: Hai người cùng đồng lòng
thì cái lợi (sự bén nhọn) có thể làm đứt KIM loại; Những lời nói đồng
lòng thì có mùi thơm như hoa LAN, nên... Kết nghĩa Kim Lan 結義金蘭 là hai
người bạn thề cùng đồng tâm hiệp lực, sống chết có nhau như anh em ruột
thịt. Ta có thành ngữ Kim Lan Chi Giao 金蘭之交 cũng đồng nghĩa với...
Kim Thạch Chi Giao 金石之交 : Kim là Kim loại rắn chắc không đổi màu; Thạch
là Đá, cứng ngắt và bền vững, nên Kim Thạch Chi Giao là sự giao tình
bền vững và rắn chắc như vàng như đá vậy. Tương tự ta có thành ngữ...
Kim
Thạch Chi Ngôn 金石之言 : là lời nói hoặc lời hứa chắc chắn như vàng như đá
không hề thay đổi. Ta nói là Những lời vàng đá hoặc đá vàng, là những
lời nói "Chắc như đá, vững như vàng", của trai gái dùng để hứa hẹn thề
thốt khi yêu nhau, như khi Kim Trọng tỏ tình trong cảnh "Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng" thì cô Kiều cũng nhận lời bằng câu đổ thừa rằng:
Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc ĐÁ VÀNG thủy chung!
...và kịp đến khi "Trên hai đường với cùng là hai em, Tưng bừng sắm sửa áo xiêm"
để mừng sinh nhật ngoại gia, để lại có một mình Thúy Kiều ở nhà, nên
nàng mới hẹn ước để gặp chàng. Trai đơn gái chiếc trong đêm thanh vắng,
nên khi "Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi" Nàng mới stop chàng lại bằng chuyện tình dưới Mái Tây:
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương,
Mây mưa đánh đổ ĐÁ VÀNG,
Qúa chìu nên đã chán chường yến anh!
...Khi
Thúc Sinh muốn chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cô kiều lo cho thân phải
làm lẻ mọn của mình, lại sợ Thúc Ông chê mình là "liễu ngõ hoa tường"
rồi "lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh", thì chàng Thúc đã vổ ngực nói là:
Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta .
Đã gần chi có điều xa?
ĐÁ VÀNG đã quyết phong ba cũng liều!
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta .
Đã gần chi có điều xa?
ĐÁ VÀNG đã quyết phong ba cũng liều!
...và khi Kim Trọng trở lại vườn Thúy để tìm Kiều, chàng cũng đã nói với Vương Ông là:
Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
Những điều VÀNG ĐÁ phải điều nói không!
Đá Vàng là Vàng Đá là Kim Thạch, là biểu tượng của Rắn chắc và Bền
vững. Nhưng nhắc đến Kim Thạch lại làm cho ta nhớ đến vở tuồng KIM THẠCH
KỲ DUYÊN của Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa kể lại chuyện tình của 2 họ Kim và
họ Thạch nhằm đề cao Trung hiếu tiết nghĩa của người đời.
Ngoài Duyên Kim Thạch, ta còn có Duyên Kim Cải do thành ngữ Châm Giới
Tương Đầu 針芥相投, có xuất xứ từ câu nói trong Tam Quốc Chí là "Từ thạch
dẫn châm, Hổ phách thập giới 磁石引针,琥珀拾芥"。Có nghĩa: Đá nam châm hút kim
loại, cón hổ phách thì hút hạt cải; Ý chỉ thứ nào thì hút theo thứ đó,
tình đầu thì ý hợp, như trai gái, vợ chồng gắn bó khắn khít với nhau
vậy. Trong truyện Nôm Quan Âm Thị Kính tả lại mong ước của Thị Kính khi
lấy chồng là Thiện Sĩ có câu:
Kể từ Kim Cải duyên ưa,
Đằng leo cây bách mong chờ về sau.
Đằng leo cây bách mong chờ về sau.
Trong Kiều tả lúc Kiều bán mình chuộc cha, Vương Viên Ngoại cũng vì nàng mà than oán:
Vì ai rụng Cải rơi Kim,
Để con bèo nổi mây chìm vì ai?!
... và lúc Kim Kiều tái hợp, trong buổi tiệc đoàn viên, khi "Tàng tàng chén cúc dở say" Thúy Vân cũng đã nói lẫ:
Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.
Cũng là phận Cải duyên Kim,
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao!...
Nhưng, trong Phật Giáo thành ngữ Châm Giới Tương Đầu 針芥相投, là Duyên kim
cải theo kinh Phật, ý nói hột cải ném ra ghim trúng đầu mũi kim, là một
chuyện khó xảy ra. Nhà thiền mượn cụm từ này để chỉ thầy trò nhân duyên
tương hợp, ăn khớp với nhau thật đặc biệt hiếm thấy. Tiểu truyện Thiền
Sư Tĩnh Lực trong kinh TUTA ghi: Du học thì, ngộ Tiên Du Đạo Huệ, châm
giới tương đầu, thê tâm Phật địa 遊學時遇仙遊道惠針芥相投棲心佛地。Có nghĩa: Khi du học,
sư được gặp thiền sư Đạo Huệ ở Tiên Du, thầy trò nhân duyên tương hợp
một cách thật đặc biệt hiếm thấy, bèn dốc lòng nương nhờ đất Phật.
Kim
là Hoàng Kim 黃金, là Vàng ròng mà người đời trân qúy nhất, nên Thời Đại
Hoàng Kim 黃金時代 là khoảng thời gian rực rỡ nhất thành công nhất trong đời
của một người, trong sự nghiệp tiến hóa của một dân tộc, trong một giai
đoạn lịch sử huy hoàng nhất của bất cứ quốc gia dân tộc nào trên thế
giới nầy. Thời đại hoàng kim là vang bóng một thời của dĩ vãng, là rực
rỡ huy hoàng của hiện tại, là kỳ vọng vươn tới của tương lai. Mỗi người
đều có thời đại hoàng kim của riêng mình, nên phải biết trân trọng, lợi
dụng và kiến tạo riêng cho mình một thời đại hoàng kim mà người khác
không sao có được!
Kim còn là Tiền, Hiện Kim 現金 là Tiền mặt. Nguyệt Kim hay Tân Kim 薪金 là
Tiền lương hàng tháng. Chức Kim 職金 là Tiền trả cho chức vụ đảm nhiệm.
Dưỡng Kim 養金 là Tiền cấp dưỡng nuôi nấng. Bảo Kim 保金 là Tiền Bảo trợ hay
Bảo đãm việc gì đó. Tư Kim 私金 là Tiền của riêng tư. Mỹ Kim 美金 là tiền
“Đô”, tiền của nước Mỹ mà ai cũng thích cả ...
Kim
là Vàng, là tượng trưng cho những gì cao qúy, hiếm hoi hay được mọi
người chiêm ngưỡng trọng vọng như Kim Thân 金身của đức Phật, là tượng
Phật được thếp vàng. Kim Bài 金牌 là cái Huy chương Vàng cho hạng Nhất;
Kim Bài còn là những khuôn có chữ vàng lộng kiếng để mừng sinh nhật, tân
gia ...Ngày xưa, Kim Bài còn là những lệnh bài của vua ban ra, nhất là
những tấm Miễn Tử Kim Bài 免死金牌 dành cho những người có công to với triều
đình thì vừa qúy giá vừa hãnh diện biết bao. Kim Hôn 金婚 là chỉ những
cặp vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau 50 năm mà vẫn còn đủ cả 2
người, còn được gọi là Kim Khánh 金慶 hay Kim Giai Ngẫu 金佳偶 là Cặp Đôi
Vàng. Kim Long 金龍 là Rồng Vàng, con vật thần thoại tượng trưng cho vua
chúa thời phong kiến, chỉ có vua mới được mặc áo thêu hình Kim Long mà
thôi. Ở cạnh cố đô Huế, không ai không biết đến bến đò Kim Long qua câu
dân ca nổi tiếng :
Thuyền về Đại Lược,
Duyên ngược Kim Long.
Đến đây là ngã rẽ của lòng,
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào?
... các cô gái Huế dễ thương đã đổi lại 2 câu chót như sau:
Đến đây là ngã rẽ của lòng,
Biết nơi mô bến đục, bến trong cho em nhờ!
Kim Qui 金龜 là Rùa Vàng, tượng trưng cho sự phú qúy. Theo Tân Đường Thư-Xa phục chí 新唐書·車服志 có ghi lại:
Đời sơ Đường, nội ngoại quan viên từ ngũ phẩm trở lên đều phải đeo túi
thêu hình cá, gọi là Ngư Đại 魚袋. Đến đời Võ Tắc Thiên mới đổi hình cá
thành hình rùa, gọi là Qui Đại 龜袋. Từ tam phẩm trở lên thì thêu bằng chỉ
màu vàng kim, tứ phẩm màu bạc và ngũ phẩm màu đồng. Nên Kim Qui tượng
trưng cho quan quyền phú qúi, từ Kim Qui Tế 金龜婿 còn dùng để chỉ chàng rể
hoặc chồng có thân phận cao qúi giàu sang. Như trong bài thơ Vị Hữu 爲有
của Lý Thương Ẩn 李商隱 sau đây:
Vị hữu vân bình vô hạn kiều , 爲有雲屏無限嬌,
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu. 鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc Kim Qui tế , 無端嫁得金亀婿,
Cô phụ hương khâm sự tảo triều . 辜負香衾事早朝.
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu. 鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc Kim Qui tế , 無端嫁得金亀婿,
Cô phụ hương khâm sự tảo triều . 辜負香衾事早朝.
Có nghĩa :
Vì có bức bình phong vẽ mây ngũ sắc đẹp vô vàn, nên ở đất Kinh thành
nầy lúc cuối đông hết lạnh, lại thấy lo sợ cho những đêm xuân, vì khi
khổng khi không lại lấy phải ông chồng làm quan lớn thế nầy, nên chi
sáng xuân ( là thời khắc mặn nồng nhất của đôi lứa ) ông ta lại phụ rãi
bỏ mặc nệm ấm chăn êm thơm phức để đi chầu Vua mỗi buổi sáng sớm!
Diễn Nôm :
Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
Vô duyên lấy phải quan ngài
Gối chăn bỏ hết mặc ai… đi chầu!
Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
Vô duyên lấy phải quan ngài
Gối chăn bỏ hết mặc ai… đi chầu!
Kim Qui Tế của thời buổi hiện nay là các chàng kỹ sư, bác sĩ, các thương gia, đại gia... lắm tiền nhiều của!
Còn ở Việt Nam ta thì Kim Quy là vị thần khả kính trên hồ Hoàn Kiếm, đã
tặng gươm thần cho Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa ở Lam Sơn, dựng nên nhà
Hậu Lê. Trong bài thơ Nước Tôi của nhà thơ Nguyễn Văn Cổn thời tiền
chiến có câu hỏi ví von như sau:
Rùa thiêng nổi trước thuyền rồng,
Trên hồ Hoàn Kiếm anh hùng là ai?
...và trong một vế thơ sau, ông đã xác định là:
Gươm thần Lê Lợi ghi thiên anh hùng!
Kim
Tháp 金塔 là cái tháp bằng vàng, mà cũng là tên riêng của thành phố
Phnom-Penh, còn được gọi là Kim Biên 金邊, Nam- Vang thủ đô của nước
Cambodia mà ta quen gọi là xứ Chùa Tháp, vì các tháp chùa ở đây thường
được dát vàng nên mới có tên là Kim Tháp. Nếu thêm vào giữa từ Kim Tháp
một chữ Tự, thì ta sẽ có...
Kim Tự Tháp 金字塔 là những cái tháp khổng lồ đầy bí ẩn của Ai Cập có hình
dáng giống như chữ Kim 金 mà thành tên. Đến năm 2008, có tất cả 138 Kim
Tự Tháp được khám phá, hầu hết là các lăng mộ của các vua (Pharaon) và
hoàng hậu Ai Cập, trong hai thời kỳ Cổ Vương Quốc và Trung Vương Quốc
(từ 2630 - 2611 trước Công Nguyên).
Các thành ngữ có liên quan đến chữ Kim thì rất nhiều, ta chỉ điểm qua
các thành ngữ thường thấy mà thôi. Nhớ hồi nhỏ đọc các Truyện Tàu như
Tiết Nhân Qúy Chinh Đông, Tiết Đinh San Chinh Tây, La Thông Tảo Bắc,
Thuyết Đường Diễn Nghĩa... hay gặp thành ngữ "Minh Kim Thu Binh 鳴金收兵" mà
không hiểu là nghĩa gì. Sau học lõm bõm chữ Nho mới biết Minh Kim 鳴金 là
"Làm cho kim loại kêu lên", có nghĩa Gỏ kẻng, gỏ chiêng hay gỏ phèng-la
để thâu binh về. Nghề võ thì có thế Kim Kê Độc Lập 金雞獨立, một chiêu thức
võ công độc đáo, đứng thẳng một chân với nhiều tư thế, hai tay cung ra
hai bên với nhiều điệu bộ khác nhau. Đây cũng là một chiêu thức của
môn Thái Cực Quyền, đồng thời cũng là một phương pháp dưỡng sinh độc đáo
có một không hai để phòng ngừa các bệnh như Tiểu đường, Cao huyết áp,
Mất trí nhớ...
Cuối
Truyện Kiều được kết thúc bằng một thành ngữ có từ KIM rất có hậu, đó
là khi Kim Trọng thi đậu làm quan đã nhớ đến Thúy Kiều:
Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
Bây giờ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG với ai?!
Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
Bây giờ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG với ai?!
KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG 金馬玉堂, thành ngữ có xuất xứ từ đời Hán. KIM MÃ là KIM MÃ MÔN, là Cửa Kim Mã, nơi mà các Học Sĩ đợi chiếu chỉ của nhà vua ban xuống. NGỌC ĐƯỜNG là NGỌC ĐƯỜNG ĐIỆN, nơi nghị sự của các Học Sĩ, là Hàn Lâm Viện của các Hàn Lâm Học Sĩ. Thành ngữ Kim Mã Ngọc Đường dùng để chỉ sự đổ đạt vinh hiển làm quan, đắc ý vì công thành danh toại.
Nhất Tiếu Thiên Kim 一笑千金, cười một cái giá đáng ngàn vàng. Có xuất xứ ở
đời Hán, từ câu nói "Thôi Nhân -Thất Y": Hồi cố bách vạn, nhất tiếu
thiên kim 回顾百万,一笑千金. Có nghĩa: Quay nhìn một cái giá đáng trăm vạn, Mỉm
cười một cái giá đáng ngàn vàng. Trong Truyện Kiều, khi đã rước được cô
Kiều về đến "trú phường", Mã Giám Sinh đã ngầm đánh giá nàng Kiều:
Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một Cười này hẵn Ngàn Vàng chẳng ngoa.
Về đây nước trước bẻ hoa,
Vương tôn qúi khách ắt là đua nhau!...
... Qủa nhiên gặp phải Thúc Sinh là tay ăn chơi bạt mạng:
Thúc Sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không!
Nhất
Khắc Thiên Kim 一刻千金, là Một khắc giá đáng ngàn vàng. Có xuất xứ từ câu
thơ đầu tiên trong bài thơ Xuân Dạ 春夜 (Đêm Xuân) của Tô Đông Pha đời
Tống như sau:
春宵一刻值千金 Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim
Có nghĩa :
Đêm xuân một khắc giá đáng ngàn vàng.
Ý
của Tô Đông Pha là đêm xuân khí trời êm ả trong mát, thanh tịnh, khiến
con người cảm thấy thoải mái dễ chịu... Nhưng sau nầy người ta thường
hiểu nghĩa của câu nói với một ý khác hẵn ý của Tô Đông Pha lúc ban đầu.
Kim
Ngọc Mãn Đường 金玉滿堂 là Vàng ngọc đầy nhà, là câu nói chúc phúc
thường được dán trên các bàn thờ vào dịp Tết Nguyên Đán để cầu mong cho
năm mới giàu sang sung túc. Ai cũng ao ước có được thật nhiều vàng, nên
ta còn có thành ngữ...
Điểm Thạch Vi Kim 點石為金 là chỉ đá hóa vàng, theo như tích sau đây:
Xưa có một người rất nghèo khổ, nhưng lại rất tin tưởng và thờ phượng Lữ Tổ 呂祖, tức là Lữ Thuần Dương Tổ Sư 呂純陽祖師 Lữ Động Tân 呂洞賓,
là một trong những tổ sư của Đạo Giáo. Cảm vì lòng thành của anh ta,
nên một hôm, Lữ Tổ hiện ra, thấy cảnh nhà tiêu điều nghèo khổ, động lòng
thương xót, mới chỉ vào tảng đá trước sân nhà, trong một thoáng, tảng
đá bỗng hóa thành vàng rực rỡ, đoạn quay sang hỏi anh ta: "Cho anh tảng
vàng này, anh có thích không?" Người kia lạy phục dưới đất đáp rằng:
"Không thích!" Lữ Tổ rất cảm động bảo rằng: "Khá lắm, anh không có lòng
tham lam, thật qúy hóa vô cùng, ta sẽ truyền đạo pháp cho anh tu tập!"
Người kia đáp: "Không phải thế, tôi chỉ muốn xin ông cho tôi cái ngón
tay chỉ đá hoá vàng của ông mà thôi!" Lữ Tổ nghe xong, giật mình biến
mất.
Lòng tham của con người qủa là không đáy, khiến thần tiên cũng phải
hoảng sợ. Tảng vàng tuy to lớn nhưng xài lâu thì cũng hết, chỉ có "ngón
tay chỉ đá hóa vàng" là không bao giờ hết vàng được mà thôi! Vì tích nầy
mà ngạn ngữ lại có câu: Chỉ thạch hóa vi kim, nhân tâm do vị túc
指石化為金,人心猶未足。Có nghĩa: Chỉ đá hóa ra vàng mà lòng người còn chưa thấy
đủ!"
Kim
Thiền Thoát Xác 金蟬脫殼, là Ve sầu lột xác, là kế thứ 21 trong 36 kế theo
binh pháp ngày xưa: Để nguyên doanh trại, để nguyên cờ xí rực rỡ, rồi âm
thầm rút lui. Đến lúc quân địch biết được thì quân ta đã đi xa rồi, như
ve sầu đã lột xác, chỉ để lại cái xác không mà thôi. 36 kế còn gọi là
36 chước, mà chước cuối cùng là bỏ trốn, như Sở Khanh đã dụ cô Kiều:
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
Ba mươi sáu chước chước gì là hơn?!
Kim Cốc Tửu Số 金谷酒數 là số rượu ở Kim Cốc, có xuất xứ từ bài Tự của Lý
Bạch: Xuân Dạ Yến Đào Lý Viên Tự 春夜宴桃李園序, câu cuối của bài tự là: Như
thi bất thành, phạt y Kim cốc tửu số 如詩不成,罰依金谷酒數. có nghĩa: Nếu thơ làm
không xong, thì sẽ bị phạt theo số rượu ở Kim Cốc. Kim Cốc Viên là vườn
nhà của cự phú Thạch Sùng đời Tấn, luôn có yến tiệc chiêu đãi tao nhân
mặc khách. Nếu trong tiệc, ai không làm được thơ thì sẽ bị phạt uống
ba đấu rượu. Cho nên Kim Cốc Tửu Số là 3 đấu rượu, 3 chung rượu hay 3 ly
rượu như ngày nay trong tiệc rượu ta hay phạt những người đến trễ vậy!
Các bợm nhậu quê tôi thường phạt nhau bằng câu thiệu sau đây: Vô cửa "bửa" một ly; ngồi xuống "uống" một ly và gắp mồi "bồi" một ly nữa là đúng 3 ly, như Lý Bạch đã nói:
三杯通大道, Tam bôi thông đại đạo,
一斗合自然。 Nhất đấu hợp tự nhiên.
但得酒中趣, Đản đắc tửu trung thú,
但得酒中趣, Đản đắc tửu trung thú,
勿為醒者傳。 Vật vi tỉnh giả truyền!
Có nghĩa :
Ba ly khai thông đạo lớn,
Một đấu hợp lẽ tự nhiên.
Muốn được vui say trong rượu,
Đừng làm kẻ tỉnh huyên thuyên!
Vàng qúy giá thật, nhưng có những thứ còn qúy giá hơn vàng, đó chính là
đàn ông, mà là đàn ông... hư biết quay đầu trở lại. Các cụ Đồ Nho
thường nhắc câu: Lãng tử hồi đầu kim bất hoán 浪子回頭金不換!Có nghĩa: Các
chàng lãng tử giang hồ ăn chơi mút mùa, nếu chịu quay đầu làm lại cuộc
đời thì... vàng cũng không thể đổi được! Tại sao? Thưa, vì các chàng đó
đã quá rành qúa chán và qúa ngán với cảnh ăn chơi trác táng rồi, bây
giờ chịu chí thú làm ăn sẽ không còn sợ bị cám dỗ và sa ngã nữa, sẽ dễ
dàng làm nên sự nghiệp một cách vững chắc không sợ lung lay! Nhưng dù
sao thì bà con ta vẫn còn ngại câu "Ngựa quen đường cũ"...
Chỉ có một thứ chắc chắn là vàng 24K hoặc vàng 4 số 9 cũng không mua nổi, đó chính là thời gian, như câu nói Nho sau đây:
Nhất thốn quang âm nhất thốn kim, 一寸光陰一寸金,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm! 寸金難買寸光陰。
Có nghĩa :
Một tấc thời gian là một tấc vàng, nhưng ...
Tấc vàng không thể mua được tấc thời gian!
Quang là Sáng, Âm là Tối; Sáng là Ban ngày, Tối là Ban đêm; hết sáng đến tối, hết ngày tới đêm, nên Quang Âm là Ngày đêm là thời gian, mà thời gian đã qua đi rồi thì không bao giờ còn có thể trở lại được. Ta chỉ có thể quay ngược được kim đồng hồ, chớ không thể quay ngược được thời gian trở về với qúa vãng. Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu khuyên rằng:
Thiếu tráng bất nổ lực, 少壯不努力,
Lão đại đồ bi thường ! 老大徒悲傷。
Có nghĩa :
Còn trẻ còn khoẻ mà không biết cố gắng, đến...
Khi lớn khi già rồi có tiếc thương thì cũng vô ích mà thôi!
Mong rằng tất cả các bạn trẻ, bạn già... đều phải nên trân trọng cái
"thời gian" mà ta "còn" có được, vì "nó" qúy hơn VÀNG !
Đỗ Chiêu Đức
Nội dung bài viết rất hay, xin cảm ơn
Trả lờiXóa