Tác
phẩm của các nghệ sĩ nổi tiếng không những đẹp mà còn phản ánh suy nghĩ
và đặc điểm của từng nghệ sĩ. Và thật thú vị biết bao khi bạn khám phá
những thông điệp bí ẩn được chôn vùi
trong các tác phẩm nổi tiếng ấy. Một số bí ẩn chưa từng được phát hiện
ra trước đây, bao gồm một bản nhạc được ẩn dấu, một nhà soạn nhạc nổi
tiếng cống hiến cho một tổ chức bí mật lớn nhất trên toàn thế giới…
Bí mật số 1: Bí mật của nhạc sĩ thiên tài
Đây
là một bức họa của nhà soạn nhạc cổ điển Wolfgang Amadeus Mozart khi
ông mới chỉ 6 tuổi. Bức tranh này được tạo ra bởi Pietro Antonio
Lorenzoni năm 1763, nhưng bạn có biết rằng hành
động của Mozart có ý nghĩa gì không? Đó là dấu hiệu thể hiện ông là
thành viên của một trong những tổ chức bí mật nhất thế giới – Hội Tam
Điểm.
Chúng
ta biết rằng Mozart là thành viên của Hội Tam Điểm trong những năm cuối
đời mình nhưng bức tranh này cho thấy sự liên quan của ông với hội từ
khi rất nhỏ – 6 tuổi. Một bàn tay giấu
bên trong áo sơ mi hoặc túi áo được coi là một dấu hiệu cho thấy sự
cống hiến của 1 người dành cho Hội Tam Điểm. Và trong nhiều tác phẩm sau
này của ông đều ám chỉ sự tận tụy của ông đối với hội. Tuy nhiên thật
sự sốc khi ta biết ông gia nhập tổ chức ấy từ
khi 6 tuổi.
Bí mật số 2: “Bữa tối cuối cùng” của Leonardo da Vinci.
Năm
2007, nhạc sĩ kiêm kỹ sư tin học nổi tiếng của Italy lại vừa công bố
phát hiện về những nốt nhạc ẩn đằng sau bức “Bữa tiệc cuối cùng” của
danh hoạ Leonardo Da Vinci. Phát hiện này
đang làm tăng thêm những khả năng về thiên tài thời kì Phục Hưng có thể
đã để lại một đoạn nhạc có giai điệu buồn.
Đầu
tiên, Pala đã phát hiện thấy một khuôn nhạc 5 dòng chạy ngang qua bức
hoạ. Thêm vào đó, cách bài trí bánh mì trong bàn ăn, kết hợp với tư thế
bàn tay của Giesu và các tông đồ đều là
những dấu hiệu tượng trưng cho các nốt nhạc.
Theo Pala, phát hiện này cũng hoàn toàn phù hợp với những biểu tượng trong đạo Cơ Đốc, giữa bánh mì – biểu thị cho thân thể của Chúa và bàn tay – được dùng để ban phát thức ăn. Tuy nhiên, nếu chỉ có dấu hiệu về những nốt nhạc thì chưa đủ làm nên một giai điệu đúng nghĩa, cho tới khi Pala phát hiện ra điểm mấu chốt: khuông nhạc này phải được đọc từ phải sang trái – theo đúng cách viết của Leonardo.
Theo Pala, phát hiện này cũng hoàn toàn phù hợp với những biểu tượng trong đạo Cơ Đốc, giữa bánh mì – biểu thị cho thân thể của Chúa và bàn tay – được dùng để ban phát thức ăn. Tuy nhiên, nếu chỉ có dấu hiệu về những nốt nhạc thì chưa đủ làm nên một giai điệu đúng nghĩa, cho tới khi Pala phát hiện ra điểm mấu chốt: khuông nhạc này phải được đọc từ phải sang trái – theo đúng cách viết của Leonardo.
Kết
quả không nằm ngoài dự đoán, khi kết hợp với nhau, các nốt trong khuôn
nhạc này cho một bản nhạc dài 40 giây với giai điệu buồn bã tựa như một
bài hát cầu siêu cho linh hồn người đã
khuất.
Bí mật số 3: Bức tranh “Hôn lễ của Arnolfini” của danh họa Jan Van Eyck.
Năm
1434, Jan Van Eyck đã hoàn thành tác phẩm “Hôn lễ của Arnolfini” (The
Arnolfini Wedding), một trong những tranh sơn dầu thành công sớm nhất.
Kết
cấu bức họa là theo cách đối xứng cân bằng, dùng phương pháp thấu thị
thuần thục và chuẩn xác để gần như làm biến mất tấm gương lồi hình tròn
ẩn đằng sau bối cảnh. Bên trong tấm gương,
ngoại trừ bối cảnh hai nhân vật chính là cô dâu, chú rể ra thì còn có
thể nhìn thấy những sự vật mà không thể thấy được trên bức họa, đặc biệt
là 2 người làm chứng hôn lễ trong phòng (phân biệt mặc y phục màu lam
và màu cam). Phía trên tấm gương, Jan Van Eyck
đã tự tay ký tên “Jan Van Eyck đang ở đây”. Điều này khiến bức họa
không chỉ là một bức họa, mà còn là chứng kiến và ghi chép cho buổi hôn
lễ thần thánh.
Trong
bức họa, rất nhiều chi tiết đều ám chỉ một loại hàm nghĩa nào đó, mà
một số là có quan hệ với tín ngưỡng và tập tục đương thời của địa
phương. Ví dụ chiếc váy của cô dâu có ý tụ
lại trước bụng, tạo thành giả tượng như có bầu; nghe nói đây là cầu may
mắn, với hy vọng “sớm sinh quý tử”.
Cây
nến trên chiếc đèn chùm đại biểu Thượng Đế đang có mặt để chứng kiến
hỗn lễ; tấm gương đại biểu sự thuần khiết, đồng thời ẩn dụ về con mắt
minh triết của Thần, hết thảy sự vật đều
trong tầm mắt, không gì thoát khỏi; chú chó nhỏ đại biểu sự trung
thành.
Quả
trái cây bên bệ cửa sổ có hai hàm nghĩa, một là chúc mừng hai người sớm
thai nghén hậu duệ, và hai là đại biểu “trái cấm”, để cảnh tỉnh đôi
trai gái không được phóng túng sa ngã. Đôi
dép trên sàn nhà ở góc bức tranh đại biểu cho “có đôi có cặp”, đồng
thời ám chỉ đôi trái gái vẫn chưa xỏ dép, bàn chân vẫn đặt nơi đất
thánh. Bức tượng gỗ ở đầu giường là Thánh Margaret, vị Thánh bảo hộ phụ
nữ, với ý nghĩa bảo đảm sinh đẻ bình an.
Bí mật số4: “Sự sáng tạo ra Adam” của Michelangelo.
Danh
họa Michelangelo đã tạo ra bức tranh để đời của mình – The creation of
Adam – trên trần nhà nguyện Sistine, Vatican từ năm 1511 – 1512. Bức
tranh mô tả về một giai thoại trong Sách
Sáng thế, khi Chúa thổi hồn và tạo ra Adam – con người đầu tiên trên
thế giới.
Năm
1990, Frank Meshberger đã công bố một nghiên cứu, cho rằng hình mẫu
Chúa trong bức họa của Michelangelo thể hiện một cách chính xác cấu trúc
giải phẫu của não người, với những đường
nét đầy đủ về bề mặt trong và ngoài não bộ, gồm thân não, thuỳ trước
trán, động mạch thân nền, tuyến yên…
Ngoài
ra, còn một ý tưởng khác, đó là miếng vải đỏ xung quanh Chúa là hiện
thân của tử cung con người, còn dây xanh chính là dây rốn. Người đưa ra
lý thuyết này là một nhóm chuyên gia
Ý, và theo họ, điều đó thể hiện việc lý tưởng hóa sự ra đời của một
người đàn ông, dựa trên chính hiện thực trong cuộc sống.
Bí mật số5: Giơ ngón tay trước Giáo hoàng của Michelangelo.
Bức
tranh trên vòm nhà nguyện Sistine Chapel mô tả nhiều cảnh khác nhau
trong “Sách sáng thế” được coi là 1 trong những kiệt tác vĩ đại nhất của
Michelangelo. Trong hàng nhiều thế kỉ qua,
mọi người từ các tín ngưỡng khác nhau đến thăm Rome và nhà nguyện
Sistine Chapel, chỉ để nhìn lên mái vòm và chiêm ngưỡng tác phẩm của
ông.
Với
phần lớn mọi người đây có thể chỉ là 1 phần tuyệt đẹp trong “Cựu Ước”,
tranh tường được sơn lên thạch cao ẩm về sự sáng tạo ra vũ trụ, thuyền
Ark của Noah, Adam và Eva. Nhưng đây cũng
có thể là tác phẩm nổi tiếng nhất nơi người nào đó lật người khác vào
đám lửa.
Trong
khoảng thời gian 4 năm để hoàn thành các bức vẽ, Michelangelo có mối
quan hệ không mấy tốt đẹp với Đức Giáo hoàng Julius II người có biệt
danh “Giáo hoàng gây sợ hãi” bởi tính cách
nóng nảy và tham vọng quyền lực.
Bên
trên chiếc cánh cửa vào nhà nguyện mà Giáo hoàng vẫn sử dụng,
Michelango tạo nên chân dung Giáo hoàng Julius thông qua hình tượng nhà
tiên tri Zechari ah. Ngay phía sau ông là thiên
thần nhỏ với ngón tay co lại mà theo người Ý là cử chỉ tục tĩu và chế
nhạo.
Bí mật số 6: Nàng “Mono Lisa” của Leonardo da Vinci.
Đến
nay, sau 500 năm kể từ ngày ra đời, người ta đã khám phá ra 8 bí ẩn
trong bức họa. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa hiểu hết được dụng ý của
Da Vinci. “Nếu bạn đứng trước một hình ảnh
to lớn của Mona Lisa, bạn sẽ hiểu tức thì vì sao nàng lại nổi tiếng như
vậy. Đó là thứ mà bạn phải nhìn tận mắt”, kỹ sư người Pháp Pascal Cotte
nhận định.
Theo
các nhà nghiên cứu, Leonardo Da Vinci đã sử dụng kỹ thuật ông tự học
“Sfumato” để pha trộn các chất màu sơn, đặc biệt là xung quanh các góc
của mắt và miệng nàng Mona Lisa. Kỹ thuật
này được cho là đã tạo ra một ảo giác về “nụ cười bí ẩn” cho nàng Mona
Lisa. Theo đó, khi người xem chú ý vào đôi mắt nàng, họ vẫn có thể thấy
nàng đang cười qua trường mắt. Tuy nhiên, chỉ một khoảnh khắc nhìn xuống
làn môi, nụ cười… dường như tan biến.
Bí mật số 7: Bức tranh “Primavera” của Sandro Botticelli.
Bức
tranh Primavera được hoàn thành năm 1482 bởi họa sĩ người Italy Sandro
Botticelli. Ông là họa sĩ tài năng với lối vẽ độc đáo, thường thể hiện
nhiều tư tưởng tiến bộ trong các chủ đề
thần thoại, gắn các nhân vật truyền thuyết với đời thực. Thời đầu Phục
Hưng, Lorenzo de Medici – người đứng đầu gia tộc Medici, một gia đình
giàu có và quyền lực bậc nhất trong lịch sử nhân loại, đã đặt Botticelli
vẽ bức Primavera để làm quà cho Giulio di
Giuliano de Medici – người sau này trở thành Giáo hoàng.
Primavera
có kích thước 202 x 314 cm bằng chất liệu tempra trên bảng. Bức tranh
là một báu vật của Italy, hiện trưng bày tại bảo tàng Uffizi, Florence.
Tranh được lấy cảm hứng từ bài thơ
Fasti của Ovid về mùa xuân và các lễ hội.
Một
điều đáng kinh ngạc là họa sĩ Botticelli đã vẽ tới 500 loại cây cỏ, hoa
khác nhau trong bức tranh chỉ có diện tích 202 x 314 cm. Nền tranh là
khu vườn cam, tương truyền cam là loài
cây biểu tượng cho gia tộc Medici. Trong các loài thực vật, có tới 190
loài hoa và 130 hoa có tên được vẽ tỉ mỉ, chi tiết chính xác như một nhà
giải phẫu sinh học.
Với
các nhân vật, cỏ cây hoa lá, Primavera là một sự thể hiện sinh động,
đầy màu sắc nhất về sự sống, tình yêu, hôn nhân và niềm hạnh phúc đang
đến với thế giới khi vào xuân.
Nguồn: Strange Mysteries
(Hoa Huỳnh chuyển )
Những khám phá này rất hay, tôi rất thích
Trả lờiXóa