Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020

Góc Việt Cổ Thi : Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN (phần 4)

 Thơ Nguyễn Trung Ngạn (P.4 )

                                                 Vạn Thạch Đình

16. Bài thơ Vạn Thạch Đình :

     萬石亭                 VẠN THẠCH ĐÌNH
木樨花下酒初醒,    Mộc tê hoa hạ tửu sơ tinh,
乘興登臨萬石亭。    Thừa hứng đăng lâm Vạn Thạch Đình.
豪傑舊遊無覓處,    Hào kiệt cựu du vô mịch xứ,
曲欄杆外數峰青。    Khúc lan can ngoại sổ phong thanh.
              阮忠彥                               Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
  - Vạn Thạch Đình 萬石亭 : Tên địa danh, nay thuộc huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
  - Mộc Tê Hoa 木樨花 : là Hoa Quế.
  - Hứng 興 : là Hứng thú; nếu đọc là HƯNG thì là Hưng thịnh (động từ). Nên
 THỪA HỨNG 乘興 : là Nhân lúc còn đang hứng thú.
  - Vô Mịch Xứ 無覓處 : Không có chỗ để tìm; có nghĩa Tìm không thấy chỗ cũ.
  - Khúc 曲 : là Gãy, là Cong; KHÚC LAN CAN 曲欄杆 là Dãy lan can uốn khúc.
  - Sổ Phong Thanh 數峰青 : SỔ là Mấy, PHONG là Ngọn núi, THANH là Xanh; nên SỔ PHONG THANH là Mấy ngọn núi xanh xanh, chớ không phải "Mấy tiếng gió".

* Nghĩa bài thơ :
                                 ĐÌNH VẠN THẠCH
      Mới vừa tỉnh rượu ở dưới chòm hoa quế, nhân lúc còn đang hứng thú bèn leo lên Vạn Thạch Đình để ngắm cảnh. Nhưng chẳng sao tìm được chỗ mà các hào kiệt ngày xưa từng dạo chơi, chỉ thấy bên ngoài dãy lan can khúc khuỷu là mấy ngọn núi xanh xanh mà thôi !
      Cảnh xưa vẫn còn đó và vẫn đẹp như xưa, nhưng anh hùng hào kiệt ngày xưa thì giờ đang ở nơi nao ? Thật là cảm khái ! Đọc bài thơ nầy lại làm cho ta nhớ tới hai câu thơ của nhà thơ Tiền Khởi 錢起 đời Đường trong bài Tương Linh Cổ Sắc〈湘靈鼓瑟〉như sau :

                      曲終人不見,  Khúc chung nhân bất kiến,
                      江上數峰青.   Giang thượng sổ phong thanh !
     Có nghĩa :
                         Khúc tàn người đã vắng tanh,
                   Trên sông mấy ngọn núi xanh một màu.

* Diễn Nôm :
                                   VẠN THẠCH ĐÌNH
 Song thất lục bát : 
                             Dưới hoa quế cơn say vừa tỉnh,
                             Vạn Thạch Đình hướng đỉnh leo lên.
                             Dấu xưa hào kiệt buồn tênh,
                             Lan can uốn khúc núi xanh mấy hòn.
        Lục bát :
                            Dưới hoa vừa tỉnh cơn say,
                            Thạch Đình thừa hứng leo ngay lên đồi.
                            Nào nơi hào kiệt dạo chơi...
                            Lan can khúc khuỷu bồi hồi núi xanh !
                                                                        Đỗ Chiêu Đức

17. Bài thơ Vĩnh Dinh Hữu Hoài :

   永營有懷                  VĨNH DINH HỮU HOÀI

別此繁華十幾年,     Biệt thử phồn hoa thập kỷ niên,
而今重過大非前。     Nhi kim trùng qúa đại phi tiền.
眼中里落多彫耗,     Nhỡn trung lý lạc đa điêu háo,
心上知交半瘠捐。     Tâm thượng tri giao bán tích quyên.
人雜肆移前後市,     Nhân tạp tứ di tiền hậu thị,
潦深平浸夏秋田。     Lạo thâm bình tẩm hạ thu điền.
棠梨見說猶濃蔭,     Đường lê kiến thuyết do nùng ấm,
客步低絗思惘然。     Khách bộ đê hồi tứ võng nhiên.
               阮忠彥                         Nguyễn Trung Ngạn

* Chú Thích :
  - Hữu Hoài 有懷 : Có hoài cảm, là có xúc cảm về... cái gì đó.
  - Đại Phi Tiền 大非前 : ĐẠI ở đây là Trạng Từ, có nghĩa như Rất, Lắm; PHI TIỀN là Khác Trước, nên ĐẠI PHI TIỀN có nghĩa là Rất khác trước, là Khác trước rất xa.
  - Lý Lạc 里落 : Lý là Hương Lý; LẠC là Bộ lạc, nên LÝ LẠC là từ kép chỉ Làng xóm, Láng giềng.
  - Điêu Háo 彫耗 : ĐIÊU là Tàn tạ héo úa, HÁO vốn âm HAO, đọc HÁO cho đúng Bằng Trắc. HAO là Hao tổn, nên ĐIÊU HAO là Điêu tàn tiêu điều linh lạc.
  - Tích Quyên 瘠捐 : TÍCH là Gầy còm ốm yếu; QUYÊN là Hiến, là Bỏ, như Quyên Sinh là Bỏ mạng sống là chết; nên TÍCH QUYÊN là Bệnh tật và chết chóc.
  - Nhân Tạp Tứ Di 人雜肆移 : Người thì Tạp nhạp, Quán xá (TỨ) thì Dời đổi (DI).
  - Lạo Thâm Bình Tẩm 潦深平浸 : Đầm nước đọng (LẠO) thì sâu ngập bằng cả mặt nước (BÌNH TẨM).
  - Đường Lê 棠梨 : Một loại Lê, còn gọi là Cam Đường, trái ngon ngọt. CAM ĐƯỜNG còn là tên một bài thơ trong thiên Thiệu Nam 詩經,召南 của Kinh Thi, kể lại tích của Thiệu Bá (Thiệu Công Thích) đời nhà Chu. Ông làm quan thanh liêm, tính tình giản dị, khi đi kinh lý các đất ở phương nam, ông thường hay ngồi dưới gốc cây cam đường để nghỉ ngơi, làm việc và xử án. Dân chúng cảm mến nên bảo vệ cây cam đường và làm thơ ca ngợi như sau :

                    蔽芾甘棠,   Tế phế Cam đường,
                    勿翦勿伐,   Vật tiễn vật phạt,
                    召伯所茇。   Thiệu Bá sở bạt.
    
                    蔽芾甘棠,   Tế phế cam đường,
                    勿翦勿敗,   Vật tiễn vật bị (bại),
                    召伯所憩。   Thiệu Bá sở khí.

                    蔽芾甘棠,   Tế phế cam đường,
                    勿翦勿拜,   Vật tiễn vật bế (bái),
                    召伯所說。   Thiệu Bá sở thuế (thuyết).
      Có nghĩa :
Cam đường cành lá xanh xanh,
                    Xin đừng cắt xén xin đừng đốn cây,
                    Thiếu Bá đã từng ngồi đây.

                    Cam đường cành lá xanh um,
                    Xin đừng cắt xén xin đừng phá cây,
                    Thiếu Bá từng nghỉ nơi đây.

                    Cam đường cành lá um tùm,
                    Xin đừng cắt xén xin đừng bẻ cong,
                    Thiếu Bá đã từng dừng chân.
      
   - Nùng Ấm 濃蔭 : NÙNG là Đậm đà, rậm rạp; ẤM là cái bóng cây, nên NÙNG ẤM chỉ Bóng cây to rậm rạp.       - Đê Hồi 低絗 : là Chỉ tơ rối nùi.
   - Võng Nhiên 惘然 : là Hoang mang, mơ hồ, thấp thỏm không yên.

* Nghĩa bài thơ :
                                        CẢM XÚC KHI ĐẾN VĨNH DINH
       Từ biệt với chốn phồn hoa đô hội nầy cũng đã mười mấy năm trời rồi, nên nay khi trở lại thì thấy khác xa trước đây rất nhiều. Làng xóm nhìn qua một lượt thì thấy đã tiêu điều tàn tạ, còn bạn bè tri giao thân thuộc ngày xưa giờ đã già yếu chết chóc hơn phân nửa rồi. Chợ búa trước sau thì quán xá đã di dời nhân sự thì hỗn tạp, nước của các đầm sâu tràn ngập bằng cả đồng ruộng của vụ hè thu. Nghe thấy cây đường lê vẫn còn phủ bóng rậm rạp, nên chi khách bước đi mà lòng rối nùi như tơ, trong dạ hoang mang không dứt.

       Người cũ trở về đây, nhưng cảnh cũ đâu còn nữa, cả nhân sự cũng đổi thay, chỉ còn có cây đường lê trước ngõ là vẫn còn rợp bóng xanh om, khiến cho người viễn khách trở lại chốn xưa không khỏi bồi hồi cảm xúc !

* Diễn Nôm :
                        VĨNH DINH HỮU CẢM
 Cách biệt phồn hoa qúa chục năm,
                   Khác xa khi trước lúc về thăm.
                   Xóm làng nơi đổi nơi tan tác...
                   Bè bạn kẻ già kẻ mất tăm...
                   Chợ búa trước sau người tạp nhạp,
                   Hè thu đồng ruộng nước tràn xâm.
                   Đường lê rợp bóng như ngày trước,
                   Khách bước chân chồn vẻ khổ tâm.
      Lục bát :
                   Phồn hoa cách biệt mười năm,
                   Khác xa lúc trước về thăm nơi nầy.
                   Xóm làng tan tác đó đây,
                   Bạn xưa kẻ chết người gầy già nua.
                   Trước sau chợ chẳng như xưa,
                   Đầm sâu ruộng ngập lúa vừa hè thu.
                   Đường lê rợp bóng thâm u,
                   Khách dồn chân bước rối bù tâm can.

                                                         Đỗ Chiêu Đức

18. Bài thơ Xuân Trú :

       春晝                           XUÂN TRÚ
縈迴竹徑遶荒齋,    Oanh hồi trúc kính nhiễu hoang trai,
避俗柴門晝不開。    Tị tục sài môn trú bất khai.
啼鳥一聲春睡覺,    Đề điểu nhất thanh xuân thụy giác,
落花無數點蒼苔。    Lạc hoa vô số điểm thương đài.
              阮忠彥                         Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
  - Trú 晝 : là Ban ngày, nên Xuân Trú 春晝 là Ban ngày trong mùa xuân.
  - Oanh Hồi 縈迴 : là Lòng vòng, là loanh quanh.
  - Nhiễu 遶(繞) : Đi vòng quanh, là bao bọc lấy. 
  - Hoang Trai 荒齋 : là Thư trai hoang vắng, là phòng đọc sách nơi vắng vẻ.
  - Tị Tục 避俗 : TỊ là lánh, là tránh xa, TỤC là Thế tục, nên TỊ TỤC là tránh xa nơi thế tục.
  - Thụy giác 睡覺 : là Thức giấc, là Ngủ thức dậy.
  - Thương Đài 蒼苔 : là Rêu xanh.

* Nghĩa bài thơ :
                                                 NGÀY XUÂN
      Con đường mòn hai bên trồng trúc uốn quanh bao bọc lấy căn thư trai hoang vắng, Vì muốn tránh xa thế tục nên cánh cửa bằng cây sơ sài ban ngày vẫn đóng kín. Một tiếng chim hót làm cho tỉnh giấc mộng xuân, nhìn ra thấy vô số hoa đang rụng trên thềm rêu xanh biếc.

      Đọc bài nầy làm cho ta nhớ đến bài ngũ ngôn tứ tuyệt Xuân Hiểu của Mạnh Hạo Nhiên đời Đường là :

                     春眠不覺曉,    Xuân miên bất giác hiểu,
                     處處聞啼鳥。    Xứ xứ văn đề điểu.
                     夜來風雨聲,    Dạ lai phong vũ thanh,
                     花落知多少?!    Hoa lạc tri đa thiểu ?!
       Có nghĩa :
                     Đêm xuân ngủ quên sáng,
                     Nơi nơi tiếng chim kêu.
                     Suốt đêm nghe mưa gió,
                     Hoa rụng biết bao nhiêu ?!

      Mạnh Hạo Nhiên thì ngủ say trong đêm xuân, còn Nguyễn Trung Ngạn thì ngủ say trong ngày xuân, đều là những kẻ sĩ muốn tìm chốn thanh nhàn để "lánh xa trần tục"!

* Diễn Nôm :
                               NGÀY XUÂN
 Quanh co ngõ trúc bọc thư trai,
                   Thoát tục sài phi đóng ngủ ngày.
                   Một tiếng chim kêu choàng tỉnh giấc,
                   Vô vàn hoa rụng phủ rêu đài !
        Lục bát :
                   Thư trai ngỏ trúc quanh co,
                   Cửa sài đóng kín chẳng lo nhân tình.
                   Chim kêu một tiếng giật mình,
                   Bên thềm hoa rụng rêu xanh phủ đầy !

                                                           Đỗ Chiêu Đức

19. Bài thơ Yên Tử Giang Trung :

    安子江中                YÊN TỬ GIANG TRUNG

春潮漠漠漲平川,    Xuân triều mạc mạc trướng bình xuyên,
蒲裡花深水鳥眠。    Bồ lý hoa thâm thủy điểu miên.
山北山南情景好,    Sơn bắc sơn nam tình cảnh hảo,
江山無限隔歸船。    Giang sơn vô hạn cách quy thuyền.
               阮忠彥                             Nguyễn Trung Ngạn
* Chú thích :
  - Mạc Mạc 漠漠 : là mênh mông mờ mịt.
  - Bình Xuyên 平川 : là Mặt đất bằng phẳng mênh mông.
  - Bồ 蒲 : là cỏ Bồ, là Cói là lát.
  - Vô Hạn 無限 : là không có hạn định, là dàn trải mênh mông...
  - Cách 隔 : là Ngăn , chia, là Cách trở.

*Nghĩa bài thơ :
                                  TRÊN SÔNG YÊN TỬ
       Sóng xuân mờ mịt theo con nước tràn cả lên bờ bằng phẳng, sâu trong đám hoa lau hoa sậy các con chim nước đang ngủ gật ngủ gù. Phong cảnh của các dãy núi phía bắc và phía nam đều đẹp cả, núi sông dàn trải vô tận như đang ngăn cách con thuyền trở về.

* Diễn Nôm :
                          YÊN TỬ GIANG TRUNG
Sóng xuân mờ mịt thủy triều lên,
                     Chim nước trong lau sậy ngủ quên.
                     Núi bắc núi nam phong cảnh đẹp,
                     Non sông cách trở khó xuôi thuyền.
       Lục bát :
                     Sóng xuân mờ mịt tràn bờ,
                     Bên trong lau sậy dật dờ chim âu.
                     Núi nam núi bắc đẹp sao,
                     Non sông dàn trải đường nào về quê !

                                                        Đỗ Chiêu Đức

20. Bài thơ Yên Tử Sơn Long Động Tự :

 安子山龍洞寺           YÊN TỬ SƠN LONG ĐỘNG TỰ
蒼蘿寒磴苦躋攀,     Thương la hàn đặng khổ tễ phan,
才到松門便解顏。     Tài đáo tùng môn tiện giải nhan.
一簇樓臺藏世界,     Nhất thốc lâu đài tàng thế giới,
四時花鳥別人間。     Tứ thời hoa điểu biệt nhân gian.
隔林有恨猿啼月,     Cách lâm hữu hận viên đề nguyệt,
倚榻無言僧對山。     Ỷ tháp vô ngôn tăng đối san.
安得身輕除物累,     An đắc thân khinh trừ vật lụy,
紫霄峰頂伴雲閒。     Tử Tiêu phong đỉnh bạn vân nhàn.
         阮忠彥                         Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
  - Thương La 蒼蘿 : là những dây leo màu xanh.
  - Hàn Đắng 寒磴 : là những bậc đá lạnh.
  - Tễ Phan 躋攀 : là leo trèo.
  - Tùng Môn 松門 : Cửa làm bằng cây thông, ở đây chỉ cửa chùa.
  - Giải Nhan 解顏 : GIẢI là Mở ra, là buông thả; NHAN là Dung nhan, sắc mặt; nên GIẢI NHAN là Buông lỏng sắc mặt xuống không còn khẩn trương nữa, nghĩa bóng là Khỏe khoắn, hết căng thẳng. 
  - Nhất Thốc 一簇 : Lượng từ, là Một xâu, một dãy, một cụm.
  - An Đắc 安得 : Làm sao có được, làm sao để có được.
  - Vật Lụy 物累 : là những vật chất phiền lụy.
  - Tử Tiêu 紫霄 : là đỉnh cao nhất của Yên Tử Sơn, cao 1068m so với mực nước biển trong dãy núi Đông Triều. Núi nằm ở ranh giới giữa 2 tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh.

* Nghĩa bài thơ :
                         CHÙA LONG ĐỘNG Ở NÚI YÊN TỬ
      Khó khăn lắm mới leo trèo lên được những bậc đá lạnh quấn quít đầy những dây leo xanh, mới đến được trước cửa chùa là đã thấy khỏe khoắn ngay. Một cụm lâu đài của nhà chùa như ẩn dấu trong núi cách biệt hẵn với thế giới bên ngoài.
Bốn mùa hoa cỏ chim muôn đều như là của riêng của thế giới nơi đây. Cách mé rừng bên kia tiếng vượn như ai oán hú dưới trăng, và bên nây nhà sư đang yên lặng nhìn về phía núi xa xa. Làm sao để có thể dứt bỏ được những vật chất lụy phiền để thân thể được nhẹ nhàng, bay lên đỉnh Tử Tiêu để cùng bầu bạn với những đám mây nhàn nhã !

* Diễn Nôm :
                      YÊN TỬ SƠN LONG ĐỘNG TỰ
Dây leo đá lạnh khó trèo qua, 
                    Đến trước cửa chùa mới khỏe ra.
                    Một dãy lâu đài xa thế giới,
                    Bốn mùa hoa điểu của riêng ta.
                    Bên rừng vượn hú trăng ai oán,
                    Tựa tháp sư nhìn núi cỏi xa.
                    Sao được bỏ buông thân nhẹ nhõm,
                    Tử Tiêu làm bạn mây nhàn qua !
      Lục bát :
                    Dây leo núi đá khó trèo,
                    Cửa chùa đến được thầm reo an lành.
                    Lâu đài lánh thế dường tranh,
                    Bốn mùa hoa cỏ riêng dành nơi đây.
                    Bên rừng vượn hú trăng gầy,
                    Nhà sư tựa tháp bên này núi xa.
                    Sao cho buông bỏ thân ta,
                    Tử Tiêu bạn với mây qua đỉnh trời !


                                                                    杜紹德
                                                                 Đỗ Chiêu Đức

🌼🌼🌼🌼🌼









1 nhận xét:

ÂN CHÚA NHIỆM MẦU - Nguyễn Kim Trân

  ÂN CHÚA NHIỆM MẦU Đức Thánh Chúa giáng sinh nơi máng cỏ Chốn trần gian nào hiểu rỏ ngọn ngành Lại chẳng nghe lời Đức Chúa giảng sanh Nên b...