Chủ Nhật, 6 tháng 2, 2022

Nhớ chợ hoa đào Hà Nội tuổi năm trăm - Nguyễn Thị Minh Thái

Vanvn- Từ TP Hồ Chí Minh, mùa Tết Nguyên đán cổ truyền, nhớ cố hương Hà Nội, tôi đã chỉ nhớ sắc hoa đào Nhật Tân ánh ỏi mùa đông giá lạnh. Tôi tuổi Hổ Canh Dần đã trải 6 con giáp, thì năm tới, theo lịch Can Chi, cũng là năm Hổ Nhâm Dần. Vì thế, năm 2022 lại càng nhớ Thăng Long – Hà Nội, tròn 1000 năm tuổi cũng vào năm Canh Dần 2010. Và bỗng dưng, chỉ nhớ cái thú riêng: đi chợ hoa Hàng Lược vào ngày áp Tết. Nhưng từ hai thập niên đầu thế kỉ 20, tôi hầu như đánh mất thú riêng này. Bởi bao năm xa quê và “sao dời vật đổi”, chợ hoa Hàng Lược đã phôi pha cái bóng dáng ngày xưa, và có khi, nó chỉ còn đẹp trong cõi nhớ. Tôi nhớ hình, nhớ ảnh, nhớ hương sắc, nhớ cả biến thiên trầm bổng trong suốt chiều dài đã 500 năm tuổi của chợ hoa đào Hà Nội…

PGS-TS Nguyễn Thị Minh Thái

Một. Ngày xưa Hà Nội có chợ Hoa đào

Chợ hoa hàng Lược ngày xưa, người Hà Nội kinh kỳ từng mua bán nhiều loài hoa, nhưng nhiều nhất và sắc thắm nhất vẫn phải là hoa đào. Theo nghiên cứu của GS.Trần Quốc Vượng, kiểu khí hậu như vùng châu thổ sông Hồng, thì gió Đông (ấm hơn gió mùa Đông Bắc, còn kêu là gió bấc), đã khiến hoa đào thành minh chứng cho loài hoa có thể nở hơn hớn trong gió bấc. Vì thế, hoa đào và gió bấc đủ đôi để t thành biểu tượng mùa xuân. Chẳng phải thơ Đường đã viết: Đào hoa y cựu tiếu Đông phong. Nguyễn Du cũng từng viết trong Kiều đấy thôi: Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông. Tất nhiên, trong thế giới hoa biểu tượng của vùng văn hóa phương Đông, hoa đào không phải là biểu tượng duy nhất cho mùa xuân. Còn hệ biểu tượng khác, như “tứ quý”: Mai – Lan – Cúc – Trúc, hay: Xuân – Lan. Hạ – Liên (Sen). Thu – Cúc. Đông – Mai. Hẳn nhiều người còn luyến nhớ câu thơ nổi tiếng của Mãn Giác, đời Đường: “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”. (Đêm qua sân trước một nhành mai). Hay bỗng nhớ thơ hoa cúc – mùa thu lộng lẫy của Xuân Quỳnh: Mùa thu vào hoa cúc/ chỉ còn anh và em/ cùng mùa thu ở lại/ kìa bao người yêu mới/ đi qua cùng heo may.

Vì tôi từng yêu Hà Nội cố hương thiên lệch qua sắc hoa đào Tết của chợ hoa Hàng Lược, nên từ thuở bé, đã tưởng đâu Hà Nội chỉ có chợ hoa duy nhất ấy. Về sau, mới vỡ nhẽ, khi GS Trần cho biết: Làng hoa Hà Nội còn là bản sắc của vùng ven đô thị cổ Hà Nội. Và Hà Nội đã không chỉ có một làng hoa. Ông bảo: hai làng hoa Ngọc Hà – Hữu Tiệp nằm kề nhau, nay thuộc quận Ba Đình. Xưa là “làng ven đô” Hà thành và nổi tiếng: Đất Ngọc Hà – hoa Hữu Tiệp, đất sinh hoa, hoa kết tinh hương từ đất. Yên Phụ cửa ô xưa, trước đời Thiệu Trị -Tự Đức (trước 1840-1848) mang tên Phường An (Yên) Hoa – tên có từ đời Lý Trần (1010 – 1400) – và có cánh đồng Bông.Trước thế kỉ XVII, người Bắc gọi Hoa là Bông, người Nam bây giờ cũng gọi vậy, dù ở kinh đô Huế, người Huế gọi Hoa là Huê (kiêng kị riêng).

Còn phải nói đến Quất, (cũng là biểu trưng Tết Việt), ở Hà Nội ngày xưa là Quất Nghi Tàm, với nghệ thuật đảo quất siêu phàm của người làm vườn tài hoa Thăng Long: đánh cây lên, rồi trồng lại vào ngày tháng nào đó được nghệ nhân tính toán kĩ, sao cho cây cận Tết sai trĩu quả vàng xum xuê. GS Vượng đồ rằng, nói đến Đào ngày xưa, phải nói đến đào Nhật Tân. Thành ngữ dân gian Hà Nội có câu: Tương Nhật Tảo, Đào Nhật Tân. Đấy là đặc sản của từng làng ven đô Hà Nội, và hiện nay những làng này đã chính thức trở thành đất Hà Nội – Thủ đô hiện đại.

GS Trần cho biết: Nhật Tân – trước đời Nguyễn (1802), là phường Nhật Chiêu (nghĩa chữ là bình minh, rạng đông). Xét về địa – văn – hóa, nơi ấy đón nắng ban mai sớm nhất, đón xuân cũng sớm nhất. Theo kinh nghiệm lâu đời của người làm vườn xưa, đất cận phù sa trồng đào là đắc địa. Ngày xưa, người trai trồng đào cất công gánh các tảng đất hồng nâu màu phù sa sông Hồng, từ ngoài đê vào trong đê, đổ đất dựng vườn: Công anh gánh đất trồng đào/Bây giờ anh để lọt vào tay ai? Bởi nếu không có người trai gánh đất, sẽ chẳng có làng hoa chợ hoa ngoại thành, cho các cô hàng hoa gánh vào nội thành, mà thành chợ hoa Hà Nội – thành phố trong sông Hồng.

Vậy từ ngày xa xưa ấy, chợ hoa Hà Nội được gọi tên gì?

Lần giở cảo xanh trước đèn, GS.Vượng tra cứu Đại Việt sử kí toàn thư, Bản Kỷ Thực lục quyển XV, chép rằng, chợ hoa ấy mang tên Chợ Hoàng Hoa và được ghi chú là thuộc trại Ngọc Hà. Đó là tên gọi chợ hoa của đất Thăng Long từ 1516, năm thứ nhất niên hiệu Quang Thiệu đời Lê Chiêu Tông. Như thế, chính sử đã chỉ đích danh làng hoa Ngọc Hà và chợ hoa cạnh đó có niên đại 500 năm cách ngày nay. Suy ra, chợ hoa phải có trước, rồi mới có cái cho nhà sử chép. Bởi vậy, xác định niên đại chợ hoa Hà Nội 500 năm, theo GS.Trần, là cử chỉ khiêm cung và phong nhã. Ông lưu ý, tên phường An Hoa với cánh đồng Bông (Yên Phụ) có từ thời Lý, thuở Chiếu dời đô (1010-1226), và dẫn thêm ca dao về chợ hoa An Quang gần đấy: Phiên Rằm chợ chính An Quang/ Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua…Vẫn chưa thỏa, GS.Vượng đưa thêm sử liệu từ Toàn thư, Bản kỷ thực lục quyển X: “Năm Kỷ Dậu Thuận Thiên thứ hai (1429), tháng 3, ngày 20, vua (Lê Thái Tổ) hạ lệnh cho đô tổng quản cùng các quan viên ở các phường trong kinh thành: hiện nay, đất của các quận và phủ đệ, gia viên của các công hầu bách quan đều có phần nhất định, phải nên trồng cây, trồng hoa và rau đậu, không được bỏ hoang”.

Thi sĩ xứ Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường đánh giá cao nghiên cứu của GS. Vượng, bởi đã đưa niên đại cụ thể cho loại hình nhà vườn Việt Nam: 1429, loại hình mà kinh thành Huế xưa và Huế nay còn rất thịnh! Ngoại suy tiếp tục, GS.Trần còn đẩy lên đời Lý – Trần sự xuất hiện của gia viên (nhà vườn Việt). Ông đầy hứng khởi trong đề xuất một tưởng tượng lạ: Ức Trai tiên sinh Nguyễn Trãi (1380 -14220) có thể đã từng có nhà vườn để di dưỡng tính tình: “Hé cửa đêm chờ hương quế lọt/ Quét hiên ngày lẹ bóng hoa tan”. Đi sâu vào vườn thơ Ức Trai. còn thấy muôn hồng nghìn tía hoa lá, cây cảnh đất Việt thuở nào: Tùng, trúc, thiên tuế, mộc, nhài, hòe, liễu, sen …Chỉ riêng hoa đào, Quốc âm thi tập của nhà thơ tâm sáng như sao Khuê này đã có tới 6 bài, chưa kể các bài khác rơi rớt bóng hoa đào. Riêng một bài còn ẩn hiện trong tâm thức kẻ yêu thơ Ức Trai: Một đóa đào hoa khéo tốt tươi/ Tường xuân mơn mởn thấy xuân cười/ Đông phong ắt có tình chăng nữa/ Kiện tiễn* mùi hương dễ động người.(Đào Duy Anh chú: tiếng Việt cổ “kiện tiễn” là quý mến phi thường).

Có ai đó bảo: Đào Nhật Tân gốc bên Tàu, mới hiện diện ở nước ta khoảng 300 năm! GS Vượng phản bác: có giao lưu văn hóa thì có hội nhập cây ngoại sinh: có đào ta, đào phai, đào bích, đào phớt kép gốc Vân Nam! Không thể phủ nhận sự thực ấy, cũng như không thể nói: đích danh số tuổi chợ hoa Hàng Lược chỉ khoảng trên dưới trăm năm đầu thời thuộc Pháp. Vì đoạn đường ôm trọn chợ hoa đó vốn là lòng sôngTô Lịch bị lấp cuối TKXIX, và đoạn phố đó ngày trước vẫn đeo biển “Phố Sông Tô Lịch” và đoạn “Cống chéo Hàng Lược” là khúc ngoặt của sông Tô chuyển mình chảy dọc đường Phan Đình Phùng – Quán Thánh, rồi đổ xuống Thụy Khuê, Bưởi…

Tranh của họa sĩ Đỗ Phấn

Hai. Thương nhớ quay về chợ hoa đào Hà Nội

Thương nhớ chợ hoa đào hàng Lược, biết cả ngọn nguồn chợ hoa ngoại ô Hà Nội, luôn giữ thói quen sắm đào Tết ở chợ hoa Hà Nội, thì mấy năm đầu TK XXI, tôi và bạn bè nhà văn nhà báo thân nhau, bỗng nổi máu phiêu du. Thay vì mua cành đào mùa Tết Nguyên đán ở Hà Nội, chúng tôi “đổi gió”, rủ nhau phóng ô tô lên mạn ngược, cất công mua đào rừng Mộc Châu, màu đào phai, chỉ 5 cánh mỏng manh, mang về Hà Nội chơi Tết. Cành đào cắt từ vườn dưới chân núi, dáng to khỏe, vỏ cành màu nâu đen mốc trắng, hoa ngủ sâu im thin thít trong nụ non lấm tấm chi chít khắp thân cành, thoạt trông khô khốc. Nhưng thật bất ngờ, cành khô ẩn sâu nụ bé li ti bên trong ấy, về đến Hà Nội chiều 26, 27 Tết, chưa hé bất kì nụ phớt hồng nào, chỉ một hai ngày sau, sáng 28 Tết, hoa sẽ rụt rè khe khẽ nở vài ba nụ hồng phơn phớt. Rồi liên tiếp 3 ngày Tết, từ cành hoa to khỏe ấy bỗng bất ngờ nở bung hàng chục, hàng trăm bông 5 cánh hồng phấn dịu dàng. Và cứ thế tung tẩy nở không dứt đến tận Rằm tháng Giêng. Bạn bè tôi, con gái tôi tuổi Canh Thân, năm Mậu Tí 2008 sinh cháu gái đầu lòng, đã thân mật êm vui cùng ngồi dưới bóng đào rừng phai ăn uống, chuyện nở như cơm gạo vàng mừng năm mới. Trong lòng tôi, dù không ghé chợ hoa Hàng Lược, vẫn nhớ không chỉ chợ hoa truyền thống ấy mà nhớ tất cả những ngõ phố bán hoa Hà Nội, với bao cành hoa đào đẹp từ ngoài Hà Nội đổ về, cùng những chậu quất trĩu vàng, chậu hoa bạch mai và hoa thủy tiên muốt trắng…

Có lẽ vì thế mà suốt 8 năm, từ nước Nga xôviết, về định cư ở tp. HCM, không cái Tết Nguyên Đán nào, hai mẹ con không cắp nhau về Hà Nội ăn Tết; mua vé máy bay khó cách chi cũng bay về Hà Nội bằng được. Về, với nỗi nhớ giá rét ngày đông, với hoa đào, hoa mai tinh khôi, với bánh chưng mẹ gói tay, năm nào cũng một nồi vài chục cái, đun bếp củi, cả nhà thay nhau canh suốt đêm, trên cái sân căn hộ tầng một của ngôi nhà 5 tầng cũ kĩ, xây từ sau thời bom B.52 của Mỹ tơi bời ném xuống Hà Nội, suốt 12 ngày đêm tháng 12.1972. Chao ôi là ấm êm mùa Tết Nguyên đán ở Hà Nội của tôi, khi hết đạn bom, vẫn còn Mẹ, còn hoa đào ánh ỏi gọi Tết về nhà…

Thói quen bay về Hà Nội ăn Tết ta suốt 8 năm ở Tp HCM, đã dứt, khi tôi chuyển vùng về lại Hà Nội cùng con gái năm 2000. Con học đại học, ra trường, lấy chồng, sinh con, tết nào cũng an yên ở Hà Nội. Tôi biết yêu thêm sắc hoa đào núi, khi cùng bạn bè lặn lội đi Mộc Châu rước đào rừng về Hà Nội chơi Tết. Đào phai trên núi rừng Mộc Châu không ánh ỏi kinh điển như đào bích Nhật Tân và không đậm hồng phấn như đào phai Nhật Tân, nhưng trông thật khỏe mạnh, với 5 cánh màu nhạt hồng rừng núi. Tôi ngờ rằng chính bọn nhà văn nhà báo Hà Nội chúng tôi, ngay đầu TK XXI đã vô tình khởi động vụ “thương trường hoá” đào rừng, kéo dân buôn từ Hà Nội lên rừng chặt mua về bán đầy các chợ hoa Hà Nội ngày giáp Tết. Có thể, còn vì đất trồng đào Hà Nội đã bị đô thị hóa, để xây nhà cao tầng và biệt thự – nhà vườn thi nhau mọc lên quanh vùng Hồ Tây, Nghi Tàm, Quảng Bá… Và chính bọn tôi, vốn thích lang bạt kì hồ, cũng đã trở nên bận rộn việc gia đình hơn, già hơn, lười biếng phiêu du hơn, nên nhiều năm đã lấy làm tiện khi sắm một hai cành đào rừng phai ở bất kì chợ hoa nào ở Hà Nội về chưng Tết tại nhà.

Thời gian xoay vần, con gái tôi cùng gia đình nhỏ lại chuyển vùng từ Hà Nội vào Tp HCM, từ cách đây 7, 8 năm, làm việc cho một công ty truyền thông. Và lại lích kích mỗi năm hết Tết đến, cả nhà lại bay ra HN, thăm ông bà nội ngoại, họ hàng quê cha đất tổ. Cho đến năm Tân Sửu 2021, cả hai bên nội ngoại cùng chuyển vùng theo con cháu vào sống tại Tp HCM, và dịch covid bùng phát mạnh, thì, lần đầu, đại gia đình nội ngoại, ông bà con cháu, biết Tết Sài Gòn. Cái Tết chói chang sắc vàng hoa mai, sắc vàng hươm của trái quất, của hoa cúc đại đóa, và đủ các loại hoa quả mang hương sắc miền Nam, trong nắng vàng tươi vùng văn hóa Nam Bộ.

Nỗi nhớ Hà Nội hoa đào Tết bỗng lại quay về, xen lẫn sự ngỡ ngàng của Tết Sài Gòn nắng nóng, ngược hẳn với giá rét mùa đông, gió bấc hoa đào Tết Hà Nội. Biết tôi nhớ hoa đào, con gái đặt ba cành đào Hà Nội theo máy bay vào Sài Gòn nội trong ngày. Sáng bay Hà Nội, chiều tối hoa đào đã có mặt ở Sai Gòn Pearl, trong căn hộ xinh nhỏ của tôi. Tôi chơi hai cành đào nối nhau: đào phai trước Tết và đào bích từ 30 Tết đến Rằm tháng giêng, cúc đại đóa Đà Lạt, hoa mai cùng sắc vàng, đã rực rỡ cả căn hộ. Và thế là cái Tết Sài Gòn đầu tiên của gia đình tôi, vẫn được thương nhớ chợ hoa đào Hà Nội trong dọc dài thời gian – không gian của tâm thức riêng tư. Và trong lát cắt đẹp Tết Tân Sửu, cả nhà tôi đã quây quần ăn Tết trong sắc hồng đào phai, sắc thắm đào bích Hà Nội, chen sắc vàng hoa mai hoa cúc Sai Gòn…

Tôi ngẫm ngợi; Có khi/ nhiều khi phải xa Tết Hà Nội, mới biết mơ về một Hà Nội lung linh sắc hoa đào, tự thấy mình có quyền nhớ chợ hoa Hàng Lược và thấy ông già nhà văn Nguyễn Tuân chí lý, khi hình dung chợ hoa đào Hàng Lược như “dòng sông hoa đào” bất tận, tuổi năm trăm, từ Đào nguyên Thiên Thai trên trời cao, chảy về giữa lòng Thủ đô Hà Nội. Và ông già Văn Cao nữa, khi còn ở cõi dương gian, chẳng đã mơ màng khói sương trong ca khúc Thiên Thai của mình đấy thôi:

Có một vườn đào dòng ngày tháng không tàn qua một lần

Tháng 12.2021

NGUYỄN THỊ MINH THÁI

1 nhận xét:

VỠ MẢNH TRĂNG THỀ _ Thơ Songquang và Bài Họa Của Các Thi Hửu

VỠ MẢNH TRĂNG THỀ (cho nhớ ngày giỗ lần 2 hiền thê) Thu nao em đã bỏ anh rồi! Một mảnh trăng thề vội lẻ đôi Tình đó đã sâu giờ cách biệt Ngh...