Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2024

Bài thơ KÝ MỘNG của cụ Nguyễn Du (Đỗ Chiêu Đức diển Nôm )

  Đây là bài thơ cụ Nguyễn Du làm trong khoảng thời gian "Mười năm gió bụi (1786-1795)". Theo gia phả thì người vợ đầu của Nguyễn Du là con gái của ông Đoàn Nguyễn Thục, em gái của Đoàn Nguyễn Tuấn, đã mất ở Quỳnh Hải, Thái Bình. Lúc này Nguyễn Du đang ở Hà Tĩnh chiêm bao thấy vợ. Ông nghĩ lúc sống bà chưa biết đường làm sao tìm được ông trong giấc chiêm bao. Tỉnh ra nhớ đến giấc mộng mà nghĩ thương cho vợ đã không ngại hiễm nguy vất vả lặn lội đến thác mộng cho mình, nên làm bài thơ nầy để bày tỏ nỗi lòng của mình đối với người đầu ấp tay gối của những năm xưa.


              記 夢                         KÝ MỘNG
           逝 水 日 夜 流,    Thệ thuỷ nhật dạ lưu,
           遊 子 行 未 歸。    Du tử hành vị quy.
           經 年 不 相 見,    Kinh niên bất tương kiến,
           何 以 慰 相 思。    Hà dĩ uỷ tương ti (tư).
           夢 中 分 明 見,    Mộng trung phân minh kiến,
           尋 我 江 之 湄。    Tầm ngã giang chi mi.
           顏 色 是 疇 昔,    Nhan sắc thị trù tích,
           衣 飭 多 參 差。    Y sức đa sâm si.
           始 言 苦 病 患,    Thuỷ ngôn khổ bệnh hoạn,
           繼 言 久 別 離。    Kế ngôn khổ biệt ly.
           帶 泣 不 終 語,    Đới khấp bất chung ngữ,
           彷 彿 如 隔 帷。    Phảng phất như cách duy.
           平 生 不 識 路,    Bình sinh bất thức lộ,
           夢 魂 還 是 非。    Mộng hồn hoàn thị phi ?
           疊 山 多 虎 廌,    Điệp sơn đa hổ trĩ,
           藍 水 多 蛟 螭。    Lam thuỷ đa giao ly.
           道 路 險 且 惡,    Đạo lộ hiễm thả ác,
           弱 質 將 何 依。    Nhược chất tương hà y ?
           夢 來 孤 燈 清,    Mộng lai cô đăng thanh,
           夢 去 寒 風 吹。    Mộng khứ hàn phong xuy.
           美 人 不 相 見,    Mỹ nhân bất tương kiến,
           柔 情 亂 如 絲。    Nhu tình loạn như ty.
           空 屋 漏 斜 月,    Không ốc lậu tà nguyệt,
           照 我 單 裳 衣。    Chiếu ngã đơn thường y !
                       阮 攸                          Nguyễn Du
         
                      
* Chú thích :
    - 記 夢 KÝ MỘNG : KÝ là Nhớ, là ghi, nên KÝ MỘNG là "Nhớ Lại Giấc Mơ".
    - 逝 水 Thệ Thủy : THỆ là Chết, là Đi không trở lại, nên THỆ THỦY là Dòng nước chảy đi mất hút không trở lại.
    - 經 年 Kinh Niên : KINH là Đi qua, nên KINH NIÊN có nghĩa là Suốt cả năm. Đôi khi dùng để chỉ Nhiều năm qua, tương đương như từ Bao Năm.
    - 慰 Ủy : Thăm hỏi, như ỦY Lạo; Ở đây có nghĩa là An Ủy, An Ủi.
    - 江 之 湄 Giang Chi My : Bến của con sông; Bến nước.
    - 疇 昔 Trù Tích : là Như ngày xưa; là Vẫn như ngày nào.
    - 衣 飭 Y Sức : Y phục và Trang sức, chỉ sự ăn mặc.
    - 參 差 Sâm Si : là So Le; ở đây chỉ Lôi thôi, xốc xếch.
    - 始 言 Thủy Ngôn : Lời nói mở đầu; Lời nói trước tiên.
    - 繼 言 Kế Ngôn : Lời nói kế đó; Lời nói tiếp theo.
    - 帶 泣 不 終 語 Đới khấp bất chung ngữ : Nghẹn ngào sùi sụt nói chẳng hết lời.
    - 虎 廌 Hổ Trĩ hay Hổ Trãi : Chỉ các loại thú dữ như cọp như beo...
    - 蛟 螭 Giao Ly : Thuồng luồng cá sấu, chỉ chung các loại thuỷ quái dưới sông.
    - 弱 質 Nhược Chất : là Thể chất yếu đuối, thường dùng để chỉ cơ thể của phụ nữ.
    - 將 何 依 Tương Hà Y : Sẽ nương tựa vào cái gì; Biết trông cậy vào ai đây ?
    - 漏 Lậu là Dột, là rò rỉ; ở đây chỉ "Ánh trăng tà chiếu LỌT vào trong phòng vắng (Không ốc lậu tà nguyệt 空 屋 漏 斜 月).
    - 單 裳 衣 Đơn Thường Y : Chỉ Quần áo mỏng manh khi mặc để ngủ.

* Nghĩa bài thơ :
                         NHỚ LẠI GIẤC MƠ
        Như dòng nước cứ đêm ngày chảy đi rồi mất hút, cũng như người du tử đi xa mãi vẫn chưa về. Biết bao năm qua không gặp mặt nhau, lấy gì để an ủi cho lòng thương nhớ nhau đây? Rõ ràng là gặp nhau ở trong mơ, nàng đến tìm ta ở bên bờ sông nước. Nhan sắc thì vẫn như thuở nào, nhưng sao áo quần trông xốc xếch thế kia. Mở lời bằng những lời thở than bệnh hoạn, kế đến là bày tỏ nỗi nhớ thương ly biệt lâu ngày. Sùi sụt trong tiếng nấc nghẹn ngào nên nói không cạn lời, mường tượng như là bị ngăn cách bởi một bức màn thưa. Bình sinh nàng vốn chẳng biết đường đi, nên mộng hồn chẳng rõ là thực hay là hư ? Núi Tam Điệp nhiều hổ báo cọp beo; Sông Lam Giang lại lắm thuồng luồng cá sấu. Đường đi thật hiễm ác vô cùng, với bản chất yếu đuối của phái nữ nàng sẽ nương tựa vào ai đây?... Ta mơ màng trong ngọn đèn côi thanh vắng, khi tỉnh lại thì gió thổi lạnh lùng. Nào có gặp được người đẹp nào đâu, càng khiến cho mối tình cảm trong lòng rối tợ tơ vò. Nhìn bóng trăng nghiêng nghiêng chiếu lọt vào phòng vắng chiếu cả lên thân áo mỏng manh mà ta đang mặc ngủ...

         Tình cthật chân thành tha thiết, thê lương buồn thảm của một người chồng nhớ đến người vợ đã khuất bóng của mình; là mơ nhưng như thật "夢 中 分 明 見 Mộng trung phân minh kiến": Thấy thật rõ ràng ở trong mơ; Tưởng thật nhưng lại là mơ "彷 彿 如 隔 帷 Phảng phất như cách duy: Chập chờn như là bị ngăn cách bởi một bức rèm the. Thấy lại hết trong mơ cái thể chất yếu đuối yêu kiều ca người vợ cũ hay bệnh tật lại đa sầu đa cảm cho nỗi biệt ly, phải lặn lội đường xa xuyên qua núi sông hiễm ác  để đến báo mộng cho mình... Những hình ảnh thân thương của người vợ cũ ngày thường trong tâm tưởng đều hiễn hiện lại trong mơ. Nhưng khi giật mình tỉnh giấc thì chỉ thấy ánh trăng tà chiếu xuyên qua phòng vắng trong cơn gió lạnh lẽo đơn côi... Qủa là bi thương thê thiết cho một người thuộc "nòi tình" như là tác giả của Đoạn Trường Tân Thanh vậy!

* Diễn Nôm :
                               KÝ MỘNG
                   
                   

                 Dòng thệ thủy ngày đêm tuôn chảy,
                 Gót lãng du đi mãi chưa về.
                 Bao năm chẳng gặp não nề,
                 Lấy gì an ủi v về tương tư.

                 Nay trong mộng rõ như gặp mặt,
                 Nàng tìm ta bến nước ven bờ.
                 Dung nhan tựa thuở bao giờ,
                 Áo xiêm xốc xếch ngẩn ngơ hàm tình.

                 Trước mở lời đinh ninh bệnh hoạn,
                 Sau hàn huyên khổ nạn biệt ly,
                 Nghẹn ngào chẳng nói nên chi,
                 Bên rèm thấp thoáng thấy gì dung nhan.

                 Bình sinh vốn chẳng am đường xá,
                 Mộng hồn kia tựa có tựa không.
                 Hổ lang Tam Điệp trùng trùng,
                 Lam Giang thủy quái thuồng luồng khắp nơi.

                 Đường hiễm ác lắm nơi đều vậy,
                 Thể chất kia biết cậy nhờ ai ?
                 Mơ màng đèn vắng đêm dài,
                 Tỉnh ra gió lạnh ai hoài một thân !

                 Người đâu tá tần ngần chẳng thấy,
                 Tình ngổn ngang lòng rối tựa tơ.
                 Phòng không lọt ánh trăng mờ,
                 Áo đơn lạnh lẽo bơ phờ nhớ ai !
                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm



       Hẹn bài dịch tới !

                                                     杜 紹 德
                                                 Đỗ Chiêu Đức




 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thành Ngữ Điển Tích 114 : TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH.

  Thành Ngữ Điển Tích 114 :                                 TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH. Ao Chuôm  TRÌ ĐƯỜNG 池塘 là Ao chuôm, ao đầm, ao hồ...